Mô hình nuôi cá bông lau (Pangasius krempfi) trong ao đất ở tỉnh Sóc Trăng
TÓM TẮT
Nuôi cá bông lau được thử nghiệm tại huyện Kế Sách và huyện Cù Lao Dung từ 31/01/2018 đến
30/7/2019. Tại mỗi địa điểm nghiên cứu, cá được thực hiện nuôi trên 3 ao cho mỗi huyện với mật
độ dao động từ 1-2 con/m2 có sục khí và quạt nước. Cá bông lau giống thả nuôi có khối lượng trung
bình 6,06 g/con. Sau thời gian nuôi 11 tháng, khối lượng cá bông lau ở Kế Sách chỉ đạt 312-345 g/
con thấp hơn nhiều so với khối lượng cá ở Cù Lao Dung là 1.090-1.200 g/con. Tốc độ tăng trưởng
tuyệt đối của cá ở vùng nuôi Cù Lao Dung trung bình là 3,1 g/ngày, cao hơn nhiều so với vùng Kế
Sách trung bình là 1,0 g/ngày. FCR dao động từ 2,5-2,8. Tỷ lệ sống của cá nuôi ở Kế Sách là khá
thấp dao động từ 7,1-51,4%, trung bình là 22,3% so với ở Cù Lao Dung khá cao dao động 72,4-
90,0%, trung bình đạt 79,3%. Năng suất cá trung bình ở Kế Sách đạt khá thấp (0,81 tấn/ha), trong
khi ở Cù Lao Dung là 14,9 tấn/ha. Các hộ nuôi ở vùng nước lợ có lời và lợi nhuận bình quân đạt
38,0 triệu đồng trên 1.000 m2 sau 11 tháng nuôi. Các thảo luận đánh giá về những vấn đề kỹ thuật
cần giải quyết tiếp theo nhằm nâng cao hiệu quả nuôi ở cả môi trường nước lợ và ngọt được bao
gồm trong bài báo.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình nuôi cá bông lau (Pangasius krempfi) trong ao đất ở tỉnh Sóc Trăng
háng nuôi và ở vùng nuôi Cù Lao Dung cao hơn ở Kế Sách. Ngoài ra, đối với tăng trưởng về chiều dài ở Kế sách ở các tháng cuối 8, 9 và 11 hầu như không tăng lên (Hình 7). Tăng tưởng tuyệt đối về khối lượng (DWG) và chiều dài (DLG) của cá bông lau tại hai vùng nuôi theo từng tháng thể hiện trong Hình 8. DLG nuôi ở Cù Lao Dung rất cao ở tháng đầu và hầu như cao ở điểm nuôi Kế Sách qua các tháng. Xu hướng DWG cũng tương tự cao hơn ở điểm nuôi Cù Lao Dung so với Kế Sách qua các tháng, đặc biệt ở tháng 9 và 11 tăng rất cao ở Cù Lao Dung trong khi giảm rất thấp ở Kế Sách. Hình 7. Tăng trưởng khối lượng và chiều dài cá bông lau trong thời gian nuôi. Hình 8. Tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng và chiều dài của cá bông lau. 3.3. Tỷ lệ sống, năng suất Sau 11 tháng nuôi, tỷ lệ sống của cá ở Kế Sách là khá thấp dao động từ 7,1-51,4% và trung bình là 22,3%. Trong khi đó, tỷ lệ sống của cá ở Cù Lao Dung khá cao dao động 72,4-90,0% và trung bình là 79,3%. Tỷ lệ sống của cá ở Kế Sách và Cù Lao Dung là khác nhau, sự sai khác nhau có ý nghĩa thống kê P<0,05 (Bảng 5). 9TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 5. Tỷ lệ sống và năng suất trung bình. Vùng nuôi Tỷ lệ sống (%) Năng suất cá (kg/ha) Sản lượng (kg/ao) FCR Kế Sách 22,3±25,7a 811,7±767,7 Phan Minh Cường 51,9 1688,2 287 Trần Minh Tuấn 7,9 259,2 33,7 Ngô Minh Trí 7,1 487,5 78 Cù Lao Dung 79,3±9,4b 14.897,8±5.578,8 Trần Thanh Nhã 75,4 9043,6 994,8 2,5 Lâm Vũ Linh 72,4 15496,7 1859,6 2,8 Lâm Thành Lâm 90,0 20153,0 4030,6 2,5 Ghi chú: Trong cùng một cột, các giá trị có ký hiệu ký tự khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%. Năng suất cá bình quân ở Kế Sách đạt 811,7 kg/ha là khá thấp tương ứng đạt 1.688; 259 và 488 kg/ha cho 3 ao mật độ 1 con/m2; 1 con/m2 và 2 con/m2. Trong khi ở Cù Lao Dung năng suất trung bình là 14.897,8 kg/ha tương ứng đạt 9.044; 15.497 và 20.153 kg/ha cho 3 ao mật độ 1 con/m2; 2 con/m2 và 2 con/m2 (Bảng 5). Các hộ nuôi tại Kế Sách cá hao giai đoạn cuối dẫn đến tỷ lệ sống thấp do đó không tính hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR). FCR của các hộ nuôi cá bông lau ở Cù Lao Dung đạt lần lượt 2,5; 2,8 và 2,5 tương ứng cho 3 ao nuôi Trần Thanh Nhã, Lâm Vũ Linh và Lâm Thành Lâm. Kết quả theo dõi xuất hiện bệnh và phòng trị cũng được thực hiện trong suốt vụ nuôi. Các ao vùng nuôi Cù Lao Dung, xuất hiện ký sinh sán lá mang vào tháng nuôi thứ 3-4 và thực hiện điều trị hiệu quả. Đối với các vùng nuôi Kế Sách bệnh gan thận mủ xuất hiện vào tháng nuôi thứ 6 và thứ 10 và bệnh xuất huyết vào tháng thứ 8. Cá ao thí nghiệm được trị theo kết quả kháng sinh đồ. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị bệnh gan thận mủ tháng thứ 10 thấp, dẫn đến hao hụt và ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá. Ngoài ra, các ao thí nghiệm ở Kế Sách cũng bị nhiễm ký sinh trùng rải rác trong suốt vụ nuôi. 3.4. Hiệu quả kinh tế của mô hình ở 2 vùng nuôi Hiệu quả kinh tế của các ao nuôi theo 2 vùng Cù Lao Dung và Kế sách thể hiện trong Bảng 6. Với sản lượng đạt được (Bảng 5) ở huyện Cù Lao Dung (Lâm Thành Lâm, Lâm Vũ Linh, Trần Thanh Nhã) tương ứng là 4.030,6; 1.860,0 và 995,0 kg, giá thành 73.641 đồng/kg và giá bán trung bình của 3 hộ là 94.670 đồng/kg thì lợi nhuận mang lại cho cả 3 hộ này là 163,6 triệu đồng, trung bình 38,0 triệu đồng/1.000 m2 và tỷ suất lợi nhuận đạt 28,5% cho 11 tháng nuôi. Kết quả nuôi cá bông lau của 03 nông hộ ở Cù Lao Dung chưa cao như mong đợi. Riêng hộ ông Lâm Thành Lâm đã nuôi thêm 6 tháng, sản lượng cuối cùng là 4.950 kg/ao 2.000 m2, năng suất đạt 24,75 tấn/ha, lợi nhuận mang lại cho hộ là 134,6 triệu đồng. Các ao nuôi tại huyện Kế Sách, cá chậm lớn, hao hụt nhiều do cá thường bị bệnh ký sinh trùng và bệnh gan thận mủ. Sản lượng của các hộ nuôi ở Kế Sách ước đạt khoảng 1 tấn cá, với giá bán khoảng 100.000 đồng, như vậy tổng thu khoảng 100 triệu, trừ chi phí thì các hộ bị lỗ 183,3 triệu đồng, tương ứng lỗ 39,9 triệu đồng/1.000 m2 sau 11 tháng nuôi. 10 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 6. Hiệu quả kinh tế mô hình nuôi cá bông lau. Nội dung Cù Lao Dung (đồng) Kế Sách (đồng) Cá giống 90.000.000 74.400.000 Thức ăn 386.269.500 145.950.000 Bộ test môi trường 5.409.000 5.409.000 Cải tạo ao 14.200.000 15.530.000 Thuốc hóa chất 29.195.000 8.285.000 Vật tư, thiết bị 2.000.000 5.200.000 Điện 28.700.000 2.950.000 Công LĐ 17.000.000 12.000.000 Chi phí khác 2.000.000 13.590.000 Tổng chi phí 574.773.500 283.314.000 Tổng thu 738.881.440 100.000.000 Lợi nhuận/tổng mô hình 163.585.940 -183.314.000 Lợi nhuận/1.000 m2 38.043.242 -39.850.870 Giá thành (đồng) 73.641 Tỷ suất lợi nhuận %) 28,5 IV. THẢO LUẬN Các chỉ tiêu thuỷ lý hoá đa số nằm trong ngưỡng thích hợp, ngoại trừ NH3 cao ở 2 thời điểm thu mẫu 15/07 và 15/09, cũng rơi vào thời điểm pH cao ngày 15/09 ở các ao nuôi Cù Lao Dung. Hơn nữa, chỉ tiêu NO2 cũng cao ở một số thời điểm thu mẫu trong suốt thời gian nuôi. Như vậy có thể thấy việc thay nước 2 tuần/lần đã chưa mang lại liệu quả về chất lượng nước. Thực nghiệm nuôi trong tương lai có thể chú ý đến tăng cường và sử dụng hợp lý chế phẩm vi sinh để xử lý nước hoặc thay nước với tần suất cao hơn. Tăng trưởng về khối lượng của cá trong nghiên cứu này ở môi trường nước lợ (Cù Lao Dung) là 1.136,7 g/con, cao hơn nước ngọt (Kế Sách) chỉ đạt 327,3 g/con từ con giống nhỏ 6,1 g/con sau 11 tháng nuôi. Kết quả nuôi trong nước lợ trong nghiêu cứu này cho khối lượng thu hoạch cao hơn nuôi nước ngọt ở Vĩnh Long của nghiên cứu Cao Văn Lên (2017) đạt 645 g/ con đối với mật độ 1 con/m2 và đạt khối lượng 602,7 g/con đối với mật độ 0,5 con/m2 nhưng khối lượng cá ban đầu khi thả cao hơn là 25 g/ con và sau 10 tháng nuôi. Kết quả nuôi trong nước ngọt trong nghiêu cứu này cho khối lượng thu hoạch thấp hơn nuôi nước ngọt ở Vĩnh Long của nghiên cứu Cao Văn Lên (2017), chỉ 327,3 g/con. Tuy nhiên, có sự khác biệt ở đây là Cao Văn Lên (2017) thả mật độ thấp hơn là 0,5 và 1,0 con/m2 (so với trong nghiên cứu này là 1,0- 2,0 con/m2) và thả cá giống từ tự nhiên (so với trong nghiên cứu này là giống sinh sản nhân tạo). Kết quả này phù hợp với kết quả điều tra tình hình nuôi cá bông lau ở Vĩnh Long, sau 12 tháng nuôi cá chỉ đạt khối lượng 400-500 g/ con, sau 24 tháng cá đạt 1.200-1.500 g/con của chúng tôi. Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối theo khối lượng của cá nuôi tại huyện Cù lao Dung (độ mặn 0-8‰) là 3,1 g/ngày, cao hơn so với nghiên cứu của Cao Văn Lên (2017) nuôi nước ngọt, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối đạt 2,01-2,15 g/ ngày, nhưng nuôi nước ngọt ở Kế sách thì thấp hơn chỉ đạt 1,0 g/ngày. Tuy nhiên, trong công bố của Cao Văn Lên (2017) không đề cập cá bị bệnh ký sinh trùng hay nhiễm khuẩn trong khi ao nuôi trong nghiên cứu này ở nước ngọt 11TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II bị bệnh ký sinh trùng và nhiểm khuẩn, đặc biệt là bệnh gan thận mủ làm cho hao hụt cao. Đây cũng có thể là nguyên nhân làm cho tỷ lệ sống nuôi nước ngọt trong nghiên cứu này thấp (7,1- 51,4%). Đối với ao nuôi nước lợ, tăng trưởng theo khối lượng (Hình 7) và tăng trưởng DWG tăng cao trong các tháng cuối (Hình 8), có thể cho thấy hoặc là cá tiếp tục sinh trưởng tốt hoặc có thể cá sinh trưởng tốt khi độ mặn tăng trở lại. Nghiêu cứu của Hồ Trung Hiếu (2019) nuôi cá từ 6,1 g/con trong vòng 70 ngày ở các mức độ mặn khác nhau là 0, 4‰ và 8‰ cho thấy cá tăng trưởng về khối lượng và chiều dài ở độ mặn 4‰ có khuynh hướng tốt hơn 8‰ và 0‰; FCR được ghi nhận thấp nhất ở độ mặn 8‰ (1,15), kế đến là độ mặn 4‰ (1,19), cao nhất ở độ mặn 0‰; tỷ lệ sống và sinh khối của cá ở độ mặn 8‰ tốt hơn so với độ mặn 4‰ và 0‰. Bằng chứng về cá tiếp tục sinh trưởng tốt là khi hộ Lâm Thành Lâm nuôi thêm 5-6 tháng tiếp thì tổng sản lượng thu được tăng 4.597 kg từ 4.030,6 kg. FCR cao nhất được ghi nhận ở hộ Lâm Vũ Linh là 2,8 và sau 11 tháng FCR tại vùng nuôi Cù Lao Dung dao động từ 2,5-2,8. Tỷ lệ sống của cá nuôi ở Cù Lao Dung khá cao dao động 72,4- 90,0%, trung bình đạt 79,3% (Bảng 5) thấp hơn Cao Văn Lên (2017) thực nghiệm nuôi cá bông lau trong ao nước ngọt bằng giống tự nhiên sau 10 tháng, dao động 81,4-86,4%. Năng suất cá bình quân ở Kế Sách đạt khá thấp là 811,7 kg/ ha, trong khi ở Cù Lao Dung là 14.897,8 kg/ha (Bảng 5). Năng suất ở nước lợ Cù Lao Dung cao hơn kết quả điều tra hiện trạng nuôi cá bông lau nước ngọt ở Hậu Giang 13.500 kg/ha nhưng thấp hơn ở nước lợ điều tra tại Sóc Trăng là 20.900 kg/ha mà nhóm chúng tôi đã điều tra trong dự án nuôi cá bông lau trong ao đất tại Sóc Trăng. Như vậy, nếu chúng ta có thể quản lý môi trường tốt hơn trong nghiên cứu này, quản lý và phòng trị bệnh tốt hơn và giảm được hệ số chuyển đổi thức ăn, thì chúng ta có thể đạt hiệu quả nuôi tốt hơn. Hiệu quả về lợi nhuận đạt 38,0 triệu đồng/1.000 m2 ao trong 11 tháng là tương đối tốt khi mà ở vùng nước lợ gặp khó khăn dịch bệnh trên tôm nước lợ (thẻ và sú) và tăng trưởng chậm ở độ mặn thấp cho tôm sú, thì nuôi cá bông lau có thể là phương án lựa chọn của người nuôi. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận - Các yếu tố thủy lý hóa tại vùng nuôi thí nghiệm thích hợp cho sự phát triển bình thường của cá bông lau, ngoại trừ pH, NH3 và NO2 cao ở một số thời điểm trong quá trình nuôi. - Tăng trưởng về khối lượng và chiều dài, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của cá nuôi ở nước lợ Cù Lao Dung cao hơn nhiều so với nước ngọt ở Kế Sách. Sau 11 tháng nuôi, khối lượng cá ở vùng Cù Lao Dung cao hơn gần 3 lần so với khối lượng cá ở vùng Kế Sách. Khối lượng và chiều dài cá nuôi ở Kế Sách chỉ đạt 319-345 g/ con và 31,4-31,5 cm/con thấp hơn nhiều so với khối lượng cá ở Cù Lao Dung là 970-995 g/con và 42,9-43,2 cm/con. - Hệ số chuyển hóa thức ăn của cá bông lau sau 11 tháng nuôi ở Cù Lao Dung là 2,5-2,8. Tỷ lệ sống của cá ở Kế Sách từ 7,1-51,9%, trung bình là 22,3% trong khi đó ở Cù Lao Dung là 72,4-84,8%, trung bình là 77,5%; Năng suất cá nuôi bình quân ở Kế Sách đạt khá thấp là 0,81 tấn/ha, trong khi ở Cù Lao Dung là 16,43 tấn/ha. Hiện quả về lợi nhuận tương đối tốt đạt 38,0 triệu đồng/1.000 m2 ao trong 11 tháng ở nước lợ ở Cù Lao Dung. 5.2. Đề xuất - Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện nuôi bằng con giống sinh sản nhân tạo để giảm FCR, cải thiện môi trường nuôi và phòng trị bệnh hiệu quả hơn đặc biệt là trong môi trường nước ngọt. - Nghiên cứu thử nghiệm nuôi ở mật độ cao hơn hướng đến tăng hiệu quả nuôi trên một đơn vị diện tích. 12 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II LỜI CẢM ƠN Nhóm đề tài xin cảm ơn Lãnh đạo Trường Cao Đẳng Kinh tế – Kỹ thuật, Trung tâm Quốc gia giống Thuỷ sản Nước ngọt Nam Bộ – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II, Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ KH&CN Sóc Trăng – Sở KH&CN Sóc Trăng và các ban ngành cấp xã, huyện Kế Sách và Cù Lao Dung tạo điều kiện hợp tác thực hiện đề tài. Cảm ơn các hộ nuôi tham gia thực hiện mô hình. Xin chân thành cảm ơn toàn thể anh em ở các đơn vị đã tham gia giúp đỡ thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Cao Văn Lên, 2017. Bước đầu thử nghiệm nuôi cá bông lau (Pangasius krempfi) giai đoạn từ cá giống lên cá thương phẩm trong ao đất. Đề tài nghiên cứu khoa học cơ sở tỉnh Vĩnh Long, 32 trang. Hồ Trung Hiếu, 2019. Ảnh hưởng của độ mặn đến sự tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá bông lau (Pangasius krempfi) giai đoạn giống đến 70 ngày nuôi trong điều kiện thí nghiệm. Báo cáo thực tập tốt nghiệp chuyên ngành nuôi trồng thủy sản. Trường Cao Đẳng kinh tế – kỹ thuật Cần Thơ, Khoa công nghệ – thủy sản, Bộ môn nuôi trồng thủy sản. Huỳnh Hữu Ngãi, Thi Thanh Vinh, Đặng Văn Trường, Nguyễn Thanh Nhân, Trịnh Quốc Trọng và Lê Trung Đỉnh, 2011. Kết quả sinh sản nhân tạo cá bông lau. Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long, số 2/2011. Trang 113-122. Trương Quốc Phú, Nguyễn Lê Hoàng Yến, Huỳnh Trường Giang, 2006. Giáo trình quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản. Khoa thủy sản, Trường đại học Cần Thơ. 62 trang. Sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Sóc Trăng, 2019. Báo cáo kết quả thực hiện 9 tháng đầu năm 2019. Số 423/BC-SNN ngày 18 tháng 9 năm 2019. Tài liệu tiếng Anh Boyd, C. E., 1998. Water quality for ponds Aquaculture. Research and Development Series No. 43, August 1998, Alabama, 37pp. Lawson, T. B., 1995. Water quality and environmental requirements. In Fundamentals of Aquacultural Engineering (pp. 12-39). Springer, Boston, MA. Rainboth, W. J., 1996. Fishes of the Cambodian Mekong. FAO, Rome. 265 pp. Piper, R.G., 1982. Fish hatchery management. Washinton, D.C. US Department if Interior. Fish and Wild Service, 248-271. 13TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II CULTURE MODEL OF Pangasius krempfi IN EARTHEN POND IN SOC TRANG PROVINCE Nguyen Van Hiep1*, Dang Van Truong1, Nguyen Quang Trung2, Ho My Hanh2, Lam Van Tung3, Le Trung Tam3 ABSTRACT Pond culture of Pangasius krempfi was carried out in fresh water in Ke Sach and in brackish water in Cu Lao Dung districts from January 31, 2018 to July 30, 2019. At each study site, fingerling were stocked in 3 ponds with density of 1-2 individuals.m-2 with aeration by diffuser and paddle wheel. The average stocking weight is 6.06 g/fish. After 11 months of culture, the weight of fish in Ke Sach is from 312 to 345 g.fish-1 and that in Cu Lao Dung is from 1,090 to 1,200 g.fish-1. The average dairly weight gain of fish reared in Cu Lao Dung is 3.1 g.day-1, higher than that of Ke Sach 1.0 g.day-1. FCR ranges from 2.5 to 2.8 in Cu Lao Dung’s ponds. The survival rate of fish in Ke Sach is quite low, ranging from 7.1 to 51.4%, an average of 22.3% while the survival rate of fish in Cu Lao Dung is higher, fluctuating from 72.4 to 84.8%, an average of 77.5%. The average pond yield in Ke Sach is quite low (0.81 tons ha-1) while that in Cu Lao Dung is 14.9 tons ha-1. Farms in brackish water in Cu Lao Dung have the benefit with an average of 38.0 millions VND per 1,000 m2 pond after 11 months of culture. Discussion on technical measures needs to be applied in order to improve farm benefit are also presented in this paper. Keywords: Pangasius krempfi, grow – out, pond culture, brackish water. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng Ngày nhận bài: 16/9/2019 Ngày thông qua phản biện: 26/5/2020 Ngày duyệt đăng: 20/6/2020 Người phản biện: TS. Đinh Thế Nhân Ngày nhận bài: 10/4/2020 Ngày thông qua phản biện: 26/5/2020 Ngày duyệt đăng: 20/6/2020 1 Research Institute for Aquaculture No.2 2 Can Tho Technical Economic college 3 Soc Trang Provincial Department of Science anh Technology * Email: nguyenvanhiep1979@gmail.com
File đính kèm:
- mo_hinh_nuoi_ca_bong_lau_pangasius_krempfi_trong_ao_dat_o_ti.pdf