Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên

TÓM TẮT

Hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tôm hùm lồng bè tại Vịnh Xuân Đài, tỉnh

Phú Yên được tiến hành điều tra dựa trên phiếu khảo sát có sự tham gia của cộng đồng

(PRA). Kết quả điều tra cho thấy, hoạt động nuôi tôm hùm lồng bè tại địa điểm nghiên cứu

diễn ra trong thời gian khá dài, từ 10 đến hơn 20 năm và ngày càng gia tăng về số lượng và

quy mô. Tuy nhiên, nhận thức của người nuôi về hoạt động nuôi và bảo vệ môi trường nước

vùng nuôi vẫn còn ở mức thấp. Trình độ văn hóa của người nuôi là khá thấp, tập trung ở bậc

THCS chiếm tới 61,8%. Kinh nghiệm nuôi được 100% người nuôi tự đúc kết từ thực tế và học

hỏi lẫn nhau giữa các hộ nuôi mà không thông qua bất kỳ các chương trình tập huấn nào. 99

% người nuôi có nghề nghiệp chính là nuôi tôm hùm, nuôi theo hình thức hộ gia đình 100%.

Mật độ nuôi/lồng và số lồng nuôi tự phát không nằm trong vùng quy hoạch cũng đang gia

tăng nhanh. Mặc dù 100% người nuôi cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến dịch bệnh trên

tôm hùm là do chất lượng nguồn nước nuôi và 70,6% hộ cho rằng do thức ăn thừa, tuy nhiên

có đến 72% người nuôi chưa quan tâm đến việc đảm bảo chất lượng nước vùng nuôi và

81,7% người nuôi không xử lý thức ăn thừa. 100% người nuôi tôm hùm đều không sử dụng

bất kỳ loại hóa chất nào để cải tạo nước vùng nuôi và 100% người nuôi không trang bị thiết

bị xử lý nước. Ngoài ra, có 30% không hưởng ứng việc quy hoạch vùng nuôi

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 1

Trang 1

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 2

Trang 2

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 3

Trang 3

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 4

Trang 4

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 5

Trang 5

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 6

Trang 6

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 7

Trang 7

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 8

Trang 8

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 9

Trang 9

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 32820
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên
g nước từ tháng 10 đến tháng 3 âm 
lịch, thường tập trung vào từ tháng 10 đến 
tháng 12. Đối với người nuôi có sử dụng 
nguồn giống nước ngoài, thời gian thả giống 
gần như quanh năm. 100% người nuôi tôm 
hùm được khảo sát đều cho biết, mật độ thả 
nuôi từ 50 con/lồng trở lên. 100% hộ nuôi thả 
tôm hùm giống ở giai đoạn tôm trắng (khối 
lượng 0,2 – 0,3 g/con, chiều dài 1,2 – 1,5 
cm). Tùy theo loài tôm hùm mà thời gian thu 
hoạch khác nhau, với tôm hùm bông thời 
gian thu hoạch của mỗi vụ nuôi là từ 14 - 18 
tháng, tôm hùm xanh và tôm hùm đỏ là từ 10 
- 12 tháng. 
Nhìn chung, mật độ thả giống tại điểm 
khảo sát đều vượt hơn so với mức quy định 
của Quyết định số 2383/QĐ-BNN-NTTS 
ngày 06/08/2008 Quy định tạm thời về nuôi 
tôm hùm của Bộ Nông nghiệp và PTNT [8]. 
Bảng 3. Thời điểm và mùa vụ 
Stt Nội dung khảo sát Số hộ Tỷ lệ (%) 
1 Nuôi 1 vụ 115 100 
2 Thời điểm thả giống (từ tháng 10 đến tháng 12 hàng năm) 115 100 
3 Thời gian thu hoạch 
- Tôm hùm bông: 12 -15 tháng 
- Tôm hùm xanh: 14 -18 tháng 
- Tôm hùm đỏ: 10 -12 tháng 
115 
115 
115 
100 
100 
100 
Nguồn: Kết quả tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát năm 2017 [4] 
Nguồn thức ăn: 
Hiện tại, 100% nguồn thức ăn nuôi tôm 
hùm là thức ăn tươi sống được thu mua và tự 
tìm kiếm. Qua kết quả điều tra, tại xã Xuân 
Phương, 56 người nuôi mua thức ăn cho tôm 
hùm, tỷ lệ 93,3% và có 4 người sử dụng cả 
mua thức ăn và nguồn thức ăn tự tìm kiếm, 
chiếm 6,7%. Không có người nuôi nào tự tìm 
kiếm đủ thức ăn để nuôi tôm. Tại phường 
Xuân Yên, kết quả điều tra cho thấy: có 50 
người (90,9%) tự kiếm nguồn thức ăn. Tuy 
nhiên, trên thực tế, không có người nuôi nào 
tự tìm kiếm đủ nguồn thức ăn để nuôi tôm 
nên vẫn phải thu mua từ các hộ kinh doanh 
thức ăn nuôi tôm. 
Lượng thức ăn tươi sống được sử dụng 
bình quân mỗi ngày/lồng nuôi (kg/lồng/ngày) 
tại 02 địa điểm nghiên cứu tương tự nhau, 
chia làm 3 giai đoạn như sau: 
- Giai đoạn từ tôm giống (tôm trắng) đến 
cỡ 100g/con: khoảng 1 – 3 kg/lồng/ngày. 
- Giai đoạn từ 100 – 500 g/con: khoảng 6 
– 8 kg/lồng/ngày 
- Giai đoạn từ 500 – 1.000 g/con: khoảng 
8 – 10 kg/lồng/ngày 
Tỷ lệ trung bình thức ăn dư thừa thải vào 
môi trường khoảng 25%. Trong đó, tỷ lệ thức 
ăn dư thừa là ốc khoảng 35 - 40%, thức ăn là 
cá tạp có tỷ lệ dư thừa khoảng 15 - 20% [4] [9]. 
3.2. Kết quả mức độ nhận thức về xử lý 
chất thải của hoạt động nuôi tôm 
Xử lý lượng thức ăn thừa trong lồng 
nuôi: 
Theo kết quả khảo sát, 100% người nuôi 
được khảo sát cho biết trước khi cho ăn đều 
tiến hành kiểm tra để điều chỉnh lượng thức 
ăn phù hợp nên không có hoặc có rất ít thức 
ăn thừa trong lồng. Cụ thể, 18,3% người nuôi 
cho biết có xử lý lượng thức ăn tươi sống 
thừa trong các lồng nuôi bằng cách lặn thu 
gom thức ăn cho vào bao hoặc xô rồi mang 
vào bờ xử lý. Tuy nhiên, có đến 81,7% 
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) 
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 
47 
người nuôi không xử lý thức ăn thừa mà 
dùng tay gạt thức ăn ra khỏi lồng nuôi và thải 
trực tiếp xuống khu vực nuôi. 
Tình trạng này kéo dài sẽ gây ô nhiễm 
môi trường nước, giảm chất lượng môi trường 
nuôi, gây hiện tượng phú dưỡng môi trường 
nước sinh ra tảo độc cũng như hàm lượng các 
chất độc hại trong nước tăng cao. Đặc biệt, 
nguồn chất thải này lan truyền rất nhanh đối 
với hệ thống nuôi lồng bè trên biển, dễ lan 
truyền gây ô nhiễm và dịch bệnh thủy sản phát 
sinh làm thiệt hại về kinh tế cho người dân 
nuôi trồng tôm hùm nói riêng và người dân 
đánh bắt thuỷ hải sản trên đầm vịnh nói chung. 
Sử dụng hoá chất, thuốc thú y trong 
quá trình nuôi: 
Theo kết quả khảo sát tại 2 xã, do kinh 
nghiệm nuôi tôm hùm tự đúc kết và học hỏi 
giữa người nuôi với nhau nên trong trường 
hợp tôm bệnh, người nuôi sử dụng thuốc 
kháng sinh và các loại vitamin được sử dụng 
cho người vào quá trình điều trị bệnh hoặc 
phòng bệnh trên tôm hùm do giá thành thấp 
hơn và hiệu quả cao hơn. Cụ thể, tại xã Xuân 
Phương, có đến 95% hộ sử dụng thuốc kháng 
sinh, các loại vitamin trong điều trị các bệnh 
trên tôm hùm và 5% hộ không sử dụng bất kì 
loại thuốc nào trong quá trình nuôi tôm. Tại 
phường Xuân Yên, có 85,5% hộ sử dụng 
thuốc kháng sinh, các loại vitamin trong điều 
trị các bệnh trên tôm hùm và 14,5% không sử 
dụng bất kì loại thuốc nào trong quá trình 
nuôi tôm. Như vậy, bình quân có khoảng 
90% người nuôi sử dụng thuốc và chỉ có 
10% người nuôi không sử dụng bất kỳ loại 
thuốc nào trong quá trình nuôi tôm. 
Hình 5. Tỷ lệ sử dụng hoá chất, thuốc thú y 
Đánh giá chung: việc sử dụng thuốc thu 
y tự phát trong xử lý bệnh tôm của các hộ 
dân tại vùng khảo sát không theo hướng dẫn 
của các cơ quan quản lý nhà nước tại địa 
phương cũng góp phần gây ảnh hưởng đến 
chất lượng nước nuôi và năng suất nuôi tôm 
hùm tại địa điểm khảo sát. 
Nhận thức về môi trường nước nuôi và 
dịch bệnh: 
Theo kết quả khảo sát, 100% các hộ nuôi 
cho biết đã xảy ra dịch bệnh nhiều lần trong 
quá trình nuôi và 3 loại bệnh thường gặp là 
bệnh sữa, bệnh đỏ thân và bệnh đen mang. 
Trong đó, có 100% hộ nuôi cho rằng nguyên 
nhân chính dẫn đến dịch bệnh trên tôm hùm 
là do chất lượng nguồn nước nuôi. 100% 
người nuôi tôm hùm cũng cho rằng chất 
lượng nước có ảnh hưởng rất lớn đến năng 
suất nuôi tôm hùm, cụ thể là ảnh hưởng đến 
tỷ lệ sống, tốc độ sinh trưởng và phát triển 
của tôm. Tại khu vực khảo sát, 100% người 
nuôi cho biết lượng thức ăn dư thừa và số 
lượng lồng nuôi đã ảnh hưởng lớn đến chất 
lượng nước vùng nuôi. Riêng tại xã Xuân 
Phương, 5% hộ cho rằng hoạt động nuôi ốc 
hương trong khu vực cũng ảnh hưởng đến 
chất lượng nước vùng nuôi. Kết quả điều tra 
cũng cho thấy 100% người nuôi tôm hùm 
đều không sử dụng bất kì loại hóa chất nào 
để cải tạo nước vùng nuôi. 
Ngoài ra, 70,6% hộ cho rằng nguyên 
nhân gây bệnh cho tôm còn do thức ăn. Cụ 
thể, các loại thức ăn thuộc nhóm giáp xác 
như: cua, ghẹ, tôm tít đã bị nhiễm bệnh 
sữa ngoài tự nhiên nên khi sử dụng chúng 
làm thức ăn mà không lọc kỹ sẽ lây truyền 
mầm bệnh sang cho tôm nuôi hoặc thức ăn 
không tươi khi cho tôm ăn cũng dễ gây bệnh. 
95% 
5% 
Xã Xuân Phương 
Sử dụng 
Không sử dụng 
85% 
15% 
Phường Xuân Yên 
Sử dụng 
Không sử 
dụng 
48 
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) 
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 
Kết quả khảo sát cho thấy khi xảy ra 
dịch bệnh trên tôm hùm, 100% người nuôi 
đều tiến hành lặn theo dõi và loại bỏ những 
con tôm bị bệnh để tránh lây bệnh sang các 
con tôm khỏe. Trong đó, 27% hộ nuôi di 
chuyển lồng nuôi đến khu vực nuôi mới, 
23% vệ sinh lồng bè, sang lồng để cải thiện 
chất lượng nước trong lồng nuôi và môi 
trường xung quanh nhằm giảm dịch bệnh 
trên tôm. Có 75% hộ cho biết có thu gom 
chất thải sinh hoạt, xác tôm lột trong quá 
trình nuôi, 25% còn lại thải trực tiếp ra môi 
trường. 
Như vậy, trên thực tế tại vùng khảo sát, 
100% người nuôi tôm hùm nhận thức được 
chất lượng nước vùng nuôi có ảnh hưởng rất 
lớn đến hoạt động nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, 
hầu hết người nuôi không biết cách kiểm soát 
và bảo vệ môi trường nước nuôi. Trong đó, 
thể hiện rõ nhất là việc tăng số lồng nuôi/ha 
một cách tự phát, sử dụng thuốc kháng sinh 
và các loại thuốc thúy không theo hướng dẫn, 
không có biện pháp thu gom thức ăn thừa, 
chất thải sinh hoạt và chất thải từ hoạt động 
nuôi tôm mà phần lớn thải bỏ trực tiếp xuống 
khu vực nuôi. Điều này là nguyên nhân dẫn 
đến thiệt hại về mặt môi trường, kinh tế trong 
hoạt động nuôi tôm hùm lồng bè tập trung tại 
vùng khảo sát ngày càng trở nên nghiêm 
trọng hơn. 
3.3. Kết quả khảo sát hiện trạng quản lý 
môi trường nước tại vùng nuôi 
Về việc đo đạc và giám sát chất lượng 
nước: 
Theo kết quả khảo sát, 28% người nuôi 
được khảo sát cho rằng, thỉnh thoảng, cơ quan 
nhà nước có đo đạc và lấy mẫu phân tích môi 
trường nước. Trong khi đó, có 72% người 
nuôi không rõ vấn đề trên. Cũng theo kết quả 
khảo sát tại 2 xã, 100% người nuôi từ trước 
đến nay không trang bị bất kỳ thiết bị xử lý 
nước nào trong quá trình nuôi tôm hùm. 
Về việc tuyên truyền về bảo vệ môi 
trường nước: 
Kết quả khảo sát cho thấy, 70% người 
nuôi cho rằng các cơ quan quản lý tại địa 
phương như: thị xã, xã, thôn thỉnh thoảng có 
tổ chức, tuyên truyền về việc nuôi tôm hùm 
và bảo vệ môi trường nước vùng nuôi, 30% 
không rõ về vấn đề trên. Tại khu vực khảo 
sát, người dân cũng cho biết đã từng tham gia 
nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến kiến 
thức về bảo vệ môi trường nước nuôi. Cụ thể, 
có 47 người nuôi đã tham gia tuyên truyền 
bằng hình thức họp khu phố, hợp tổ quản lý 
dựa vào cộng đồng, chiếm 40,1%; 93 người 
nuôi tham gia các lớp tập huấn, hội thảo do 
cán bộ trực tiếp phổ biến, chiếm 80,1% và có 
23 người nuôi học hỏi từ các hộ khác, tỷ lệ 
20%. 
Nhìn chung, mặc dù kết quả khảo sát cho 
thấy tỷ lệ người nuôi tôm hùm tham gia các 
chương trình tuyên truyền, phổ biến kiến 
thức về bảo vệ môi trường nước vùng nuôi là 
khá cao nhưng trên thực tế người nuôi hầu 
như không áp dụng được các kiến thức đã 
được cung cấp trong quá trình nuôi. Chính vì 
vậy, các cơ quan quản lý cần có những giải 
pháp cụ thể, hiệu quả trong việc nâng cao 
nhận thức của công đồng người nuôi tôm tại 
vùng khảo sát. 
Về việc hưởng ứng việc quy hoạch lại 
vùng nuôi tôm do nhà nước triển khai: 
Tại địa điểm khảo sát, 70% người nuôi 
hưởng ứng việc thực hiện quy hoạch vùng 
nuôi từ phía cơ quan nhà nước triển khai do 
nhận thấy vùng nuôi tôm hiện tại với mật độ 
quá cao gây ô nhiễm và ảnh hưởng lớn đến 
hoạt động nuôi tôm hùm của người dân. Đặc 
biệt là những người nuôi tự phát, không theo 
quy hoạch, người nuôi từ địa phương khác 
đến. Ngoài ra, có 30% người nuôi không 
hưởng ứng việc quy hoạch với lý do hoạt 
động nuôi tôm hùm của họ đã ổn định trong 
thời gian dài. 
Trên thực tế tại vùng khảo sát, tình trạng 
người dân tự phát nuôi tôm hùm còn xảy ra 
phổ biến. Tại địa phương cũng chưa thực hiện 
quy hoạch chi tiết các vùng nuôi. Vì vậy, chưa 
có cơ sở để tiến hành giao, cho thuê mặt nước 
biển nuôi trồng thủy sản gắn với việc quản lý 
chặt chẽ mật độ lồng bè và môi trường vùng 
nuôi. Ngoài ra, địa phương cũng chưa quản lý 
được con giống, kể cả con giống nhập khẩu, 
luôn tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh. 
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) 
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 
49 
3.4. Một số giải pháp nâng cao nhận thức 
người nuôi tại vùng khảo sát 
Để góp phần nâng cao năng suất và phát 
triển bền vững nghề nuôi tôm hùm, việc nâng 
cao trách nhiệm cộng đồng người nuôi về 
bảo vệ môi trường vùng nuôi là một trong 
những yếu tố hết sức quan trọng trong giai 
đoạn hiện nay. Cụ thể: 
- Đẩy mạnh các chương trình tuyên 
truyền bằng nhiều hình thức đến cộng đồng 
nhằm giúp người nuôi nắm bắt đầy đủ các 
thông tin, yêu cầu bảo vệ nguồn nước, tuân 
thủ theo các quy định trong nuôi trồng thuỷ 
sản trên mặt nước, lồng ghép yếu tố vệ sinh 
môi trường, nâng cao ý thức trách nhiệm 
trong việc chứa và thu gom chất thải. 
- Tăng cường công tác phối hợp giữa Ủy 
ban Nhân dân các xã phường với các cơ quan 
chuyên môn, các Hội, đoàn thể trong công 
tác vận động, hướng dẫn việc sắp xếp, bố trí 
lồng nuôi, kỹ thuật nuôi và nhận thức của 
người nuôi trong việc bảo vệ môi trường 
nước vùng nuôi. 
- Củng cố hoạt động của các tổ quản lý 
cộng đồng NTTS trong việc quản lý chặt chẽ 
vùng nuôi theo quy chế đã đề ra, nhất là số 
lượng lồng nuôi, mật độ nuôi và bảo vệ môi 
trường vùng nuôi; di dời lồng bè còn nằm 
ngoài vùng qui hoạch và tổ chức sắp xếp vào 
vùng nuôi theo phương án phân vùng đã 
được phê duyệt và định hướng phát triển 
nghề nuôi tôm hùm bền vững. 
4. KẾT LUẬN 
Qua kết quả khảo sát cho thấy: 
1. Hiệu quả kinh tế của hoạt động nuôi 
tôm hùm lồng bè tại vùng khảo sát là rất lớn. 
Tuy nhiên, với trình độ học vấn còn khá thấp 
và kinh nghiệm nuôi tôm hùm lồng bè tự đúc 
kết trong quá trình nuôi dẫn đến người nuôi 
đang đối mặt với nhiều bất lợi hiện tại và 
trong thời gian tới, trong đó, điển hình là sự 
phát triển lồng nuôi tự phát quá mức không 
theo quy hoạch, mật độ nuôi vượt mức quy 
định, tập trung vào kỹ thuật nuôi mà chưa 
chú trọng đến môi trường nuôi sẽ là nguy cơ 
gây thiệt hại về lợi ích kinh tế và môi trường 
nghiêm trọng. 
2. Nhận thức của người nuôi tôm hùm về 
vấn đề quản lý môi trường nước chưa cao. Số 
lượng người nuôi chưa thực hiện việc thu 
gom, xử lý chất thải sinh hoạt cũng như thức 
ăn thừa của tôm rất phổ biến. Vì vậy, cơ quan 
nhà nước cần đẩy mạnh một cách triệt để công 
tác tuyên truyền, phổ biến đến người nuôi 
trong việc bảo vệ môi trường nước vùng nuôi. 
3. Việc sử dụng thuốc, hóa chất trong 
quá trình nuôi tôm hùm cũng chưa được quản 
lý, đặc biệt là việc sử dụng thuốc khánh sinh 
của người trong nuôi trồng thủy sản. Vấn đề 
này sẽ gây tồn dư kháng sinh trong tôm dẫn 
đến ảnh hưởng chất lượng tôm thương phẩm 
và sức khỏe của người tiêu dùng. 
4. Vấn đề quy hoạch vùng nuôi còn 
nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nuôi tôm hùm không 
nằm trong quy hoạch là khá cao do nhận thức 
của người dân, tổ chức thực hiện của địa 
phương,  Vì vậy, công tác quy hoạch cần 
được tiến hành đồng bộ và chặt chẽ trong 
thời gian tới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản, 2012. Báo cáo tóm tắt quy hoạch phát triển tổng 
thể ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. 
[2] Võ Văn Nha, 2014. Nuôi tôm hùm lồng - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra. Thông 
tin thủy sản (3), trang 16-17. 
[3]  = Hiện-trạng-các-nguồn-thải-vào-
đầm,-vịnh-tỉnh-Phú-Yên-và-giải-pháp-bảo-vệ-môi-trường. 
[4] Nguyễn Phú Hoà và các cộng sự, 2017. Đề tài cấp Nhà nước Nghiên cứu giải pháp xử 
lý ô nhiễm và quản lý môi trường vùng nuôi tôm hùm lồng bè tập trung, 2015-2019 
[5] Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, 2015. Báo cáo tổng hợp quy hoạch nuôi tôm 
hùm đến năm 2020 và định hướng đến 2030. 
50 
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) 
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 
[6] Phạm Trường Giang, 2015. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III. Kết quả triển khai quy 
hoạch phát triển nuôi tôm hùm khu vực miền Trung đến năm 2020 và định hướng 2030. 
[7] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 3, 2015. 
Báo cáo tổng hợp quy hoạch nuôi tôm hùm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. 
[8] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008. Quyết định số 2383/2008/QĐ-BNN- 
NTTS ngày 6 tháng 8 năm 2008 về việc ban hành Quy định tạm thời về nuôi tôm hùm. 
[9] Phòng TNMT Thị xã Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, 2016. Báo cáo tình hình nuôi trồng thuỷ 
sản lồng bè và phương án thu gom chất thải trong nuôi trồng thuỷ sản. 
Tác giả chịu trách nhiệm bài viết: 
ThS. Hoàng Thị Mỹ Hương 
Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM. 
Email: htmhuong@hcmuaf.edu.vn 
PGS.TS. Nguyễn Phú Hoà 
Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM. 
Email: phuhoa@hcmuaf.edu.vn 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_danh_gia_hien_trang_va_muc_do_nhan_thuc_cua_nguoi.pdf