Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880)

TÓM TẮT

Cá trà sóc (Probarbus jullieni Sauvage, 1880) được ghi vào sách đỏ về động vật bị đe dọa ở mức độ

nguy cấp. Cá được thu thập từ tự nhiên vào nuôi lưu giữ trong ao vào năm 2005. Năm 2011 bắt đầu

nghiên cứu cho cá sinh sản. Nuôi vỗ trong ao đất tỷ lệ thành thục đạt 60,3% khi nuôi bằng thức ăn

viên và chất bổ sung (dầu mực, vitamin và khoáng). Khi nuôi vỗ bằng thức ăn viên, thịt ốc bươu và

chất bổ sung (dầu mực, vitamin và khoáng) tỷ lệ thành thục tăng lên 64,6%. Cá trà sóc thành thục

từ tháng 10 năm trước đến tháng 1 năm sau, mùa vụ cá sinh sản tập trung trong tháng 11 và 12. Độ

tuổi thành thục lần đầu của cá trà sóc đực ở tuổi 4+, cá cái 5+. Hệ số thành thục cá cái đạt 7,2-7,8%,

sức sinh sản tương đối đạt 23.810 trứng/kg cá cái và sức sinh sản tuyệt đối đạt 102.387 trứng/cá cái

(cá có trọng lượng 4,3 kg). Khi thành thục, trứng có đường kính 2,05 ± 0,16 mm. Dùng LH-RHa +

DOM + não thùy hoặc HCG + não thùy kích thích cá cái rụng trứng đạt trên 50%. Tỷ lệ trứng thụ

tinh đạt cao nhất là 59,2%, tỷ lệ nở 13,9% và tỷ lệ sống cá bột là 71%. Ương cá trà sóc 20-25 ngày

trong bể ở mật độ 500 con/m2, 1.000 con/m2 và 1.500 con/m2 đạt tỷ lệ sống lần lượt là 65,5%, 63,5

% và 55 %. Ương cá trà sóc trong ao đất 60 ngày tuổi tăng trưởng trung bình đạt 0,13 g/ngày, trọng

lượng trung bình 5,33 g/con

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 1

Trang 1

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 2

Trang 2

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 3

Trang 3

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 4

Trang 4

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 5

Trang 5

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 6

Trang 6

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 7

Trang 7

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 8

Trang 8

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 9

Trang 9

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 11080
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880)

Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880)
, kích cỡ cá, tình trạng dinh 
dưỡng, (Dương Nhật Long, 2013). Kết quả 
khảo sát và phân tích NO
2 
trong ao nuôi luôn < 
0,2 mg/lít, đây là giới hạn rất thích hợp cho môi 
trường nuôi vỗ cá bố mẹ. Theo Trương Quốc 
Phú (2005), NO
2
< 0,5 mg/lít là phù hợp cho cá.
Hàm lượng NH3-N được sinh ra trong ao 
chủ yếu do sự phân hủy chất thải ra từ cá, thức 
ăn thừa và xác tảo chết. Những thành phần 
này bổ sung rất nhiều muối dinh dưỡng cho ao 
nuôi, nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều khí 
độc (trong đó có NH3). Theo Trương Quốc Phú 
(2005), trong ao hàm lượng NH3-N> 1 mg/lít 
là không thích hợp cho các loài cá nuôi. Theo 
Nguyễn Đình Trung (2002), khi tổng NH3 lên 
đến 0,5 ppm cần phải thay nước để giảm lượng 
chất hữu cơ trong ao. Giá trị NH3-N có tăng lên 
theo thời gian nuôi là do sự tích tụ và phân hủy 
thức ăn thừa, chất thải từ cá, xác tảo chết, 
trong ao càng nhiều theo thời gian nuôi. Sự biến 
động NH3-N không lớn và trong giới hạn cho 
phép nuôi cá.
4.1.2. Sự thành thục sinh dục của cá 
So với mùa vụ sinh sản các loài cá khác 
ở ĐBSCL, cá trà sóc thành thục muộn hơn và 
khoảng thời gian thành thục ngắn.Trong cùng 
điều kiện nhân tạo kết quả nghiên cứu của Thi 
Thanh Vinh (2012, 2013) và kết quả nghiên cứu 
của Rodrarung và Ensirisak (1990) cá trà sóc 
đực có tuổi thành thục lần đầu khác nhau, nhưng 
trọng lượng gần bằng nhau. Trong khi đó ở cá 
cái tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu theo 
chiều ngược lại. Hai kết quả nghiên cứu trên 
không nói đến nguồn gốc và điều kiện sống 
của cá nên có thể là nguyên nhân ảnh hưởng 
đến sự khác nhau về tuổi và trọng lượng thành 
thục lần đầu.
Tỉ lệ cá trà sóc cái và đực thành thục đạt 
trên 55% (Hình 1). Năm 2013, cá cái có tỷ lệ 
thành thục thấp hơn cá đực, năm 2014 cái lại 
có tỷ lệ thành thục thấp hơn cá đực. Có thể tuổi 
thành thục lần đầu cá đực thấp hơn cá cái nên 
năm 2013 phần lớn cá đực đạt tuổi thành thục 
lần đầu. Điều này cũng phù hợp với một số tác 
giả đã nhận định. Thành phần thức ăn nuôi vỗ 
ảnh hưởng đến tỷ lệ cá thành thục. Khi nuôi vỗ 
cá bố mẹ cho ăn cùng khẩu phần thức ăn nhưng 
thành phần khác nhau sẽ cho tỷ lệ cá thành thục 
khác nhau. Thịt ốc được thay thế trong thành 
phần thức ăn nuôi vỗ cho thấy có sự khác biệt 
về tỷ lệ thành thục giữa 2 nghiệm thức, nhưng 
lại không có ý nghĩa về thống kê. Amatyakul 
(1995) phân tích dạ dày ở cá trà sóc kích thước 
80 cm có nhiều ốc, hai mảnh vỏ, ông cho rằng 
đây là loài cá ăn tạp với thức ăn ưa thích là động 
25TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
vật thân mềm. Vì vậy ốc là thành phần thức ăn 
rất cần cho nhu cầu dinh dưỡng cá bố mẹ và có 
ý ảnh hưởng đến tỷ lệ cá thành thục.
Cá bố mẹ được tập hợp có kích thước khác 
nhau nên trong đàn có một số cá chưa đạt tuổi 
và trọng lượng thành thục lần đầu (>4 tuổi). Một 
số cá vừa đạt tuổi và trọng lượng thành thục lần 
đầu (>4 tuổi), tuyến sinh dục phát triển đến giai 
đoạn III và dừng lại, nên hệ số thành thục rất 
thấp (0,46-0,75%). Một số cá đạt tuổi và trọng 
lượng thành thục lần đầu (>5 tuổi),tuyến sinh 
dục phát triển đến giai đoạn IV, hệ số thành 
thục cao hơn(7,2-7,8%). Cũng gần giống những 
kết quả nghiên cứu khác. Theo Rodrarung và 
Jensirisak (1990) cá trà sóc thành thục >5 tuổi, 
khi đó cá đực có trọng lượng 2-7 kg và cá cái 
trọng lượng 5-10 kg/con. 
Sức sinh sản tuyệt đối cá trà sóc từ 68.230-
102.387 trứng/cá cái. Trong cùng điều kiện 
sống, cá trà sóc có sức sinh sản khác nhau ở 
những cá thể có trọng lượng và tuổi khác nhau. 
Sức sinh sản thể hiện đặc điểm sinh sản của 
giống loài, tùy đặc điểm sinh học từng loài cá 
mà sức sinh sản cao hoặc thấp, thường ở những 
cá sinh sản không chăm sóc con thì sức sinh sản 
tuyệt đối cao hơn cá sinh sản chăm sóc, giữ con 
khi cùng trọng lượng. Về sức sinh sản tương 
đối cá trà sóc cao hơn cá hô không nhiều 
nhưng thấp hơn nhiều so với cá cóc.
4.2. Kích thích cá sinh sản
Đến nay chưa tìm thấy dấu hiệu nào để 
phân biệt cá trà sóc đực và cá cái rõ ràng. Đến 
mùa sinh sản có thể phân biệt cá đực và cá cái 
như sau: Cá đực thân thon và dài, lỗ sinh dục 
nhỏ, đường dẫn ống sinh dục nông và hẹp, 
vuốt ở lườn bụng có tinh chảy ra. Cá cái bụng 
to, lỗ sinh dục lớn, đường dẫn ống sinh dục 
sâu và rộng. Cá thành thục dùng que lấy được 
tế bào trứng.
Vẫn chưa có tài liệu nào nói về ảnh hưởng 
môi trường đến quá trình phát triển phôi của 
trứng. Theo Cacot (2008), nghiên cứu trứng cá 
trà sóc nở sau thời gian thụ tinh 42 giờ ở nhiệt 
độ nước 22-28°C. Nhiệt độ là yếu tố môi trường 
cần thiết đối với đời sống thuỷ sinh vật vì cá là 
động vật biến nhiệt. Nhiệt độ có ảnh hưởng trực 
tiếp đến các quá trình sống của cá như: quá trình 
trao đổi chất, hô hấp, sinh trưởng, cường độ bắt 
mồi, vv
pH là một trong những yếu tố ảnh hưởng 
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với động vật thủy 
sản. Đối với cá việc tăng hay giảm pH sẽ làm 
thay đổi độ thẩm thấu của tế bào không có lợi 
cho cá và ảnh hưởng đến sinh trưởng, tỷ lệ 
sống, sinh sản và dinh dưỡng. Cá sống trong 
môi trường pH quá thấp hay quá cao đều sẽ làm 
chậm sự phát dục, hoặc làm cho cá không đẻ 
hay đẻ ít. Trương Quốc Phú (2003) nhận định 
pH thích hợp cho các loài cá nuôi là 6,5-9. Các 
giá trị pH đo được trong suốt thời gian ương 
biến động pH không lớn, trung bình buổi sáng 
7,7±0,1, buổi chiều 8,1±0,12 ở chỉ số pH như 
trên là thích hợp cho sự phát triển của cá.
4.3. Ương cá giống 
Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) là yếu tố rất 
quan trọng trong ao nuôi, DO trong ao nuôi 
thấp không những tác động đến hoạt động sống 
của cá mà còn ảnh hưởng đến sự thành thục 
sinh dục. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2005), DO 
trong nước thích hợp cho các loài cá nuôi từ 
3-4 mg/lít. DO nước buổi sáng và chiều trong 
ao ương từ 6,7-7,9 mg/l là rất tốt để cho cá 
hương phát triển. 
Cá trà sóc ương 40 ngày tuổi (tính từ cá 
hương) tăng trưởng nhanh dần theo thời gian, 
từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 40 cá tăng trưởng 
nhanh hơn. Trọng lượng trung bình qua 2 đợt 
ương khi thu hoạch là 5,4 g/con và 5,6 g/con. Sự 
khác nhau về trọng lượng cá thu hoạch không 
khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Cá trà sóc ương trong ao được gây thức ăn 
tự nhiên (Moina) và cung cấp đủ thức ăn công 
26 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
nghiệp (42% đạm) nên không chỉ cá lớn nhanh 
mà tỷ lệ sống cũng đạt cao (>50%). Tỷ lệ sống 
cá trà sóc cũng giống như cá cóc là 50,0-58,1% 
(Phạm Văn Khánh, 2004), cá hô 54,8% (Huỳnh 
Hữu Ngãi, 2008).
V. KẾT LUẬN 
5.1. Kết luận
- Tuổi ảnh hưởng đến sự thành thục của 
cá. Chọn cá bố mẹ nuôi vỗ nên chọn cá đực 
tuổi 4+ trọng lượng ≥2,9 kg, cá cái tuổi 5+, 
trọng lượng ≥4,3 kg. Nuôi vỗ trong ao mùa 
vụ cá thành thục từ tháng 9 đến tháng 1 năm 
sau. Tỷ lệ cá thành thục đạt cao nhất từ tháng 
11-12, khoảng thời gian này cũng là thời điểm 
cá sinh sản.
- Nuôi vỗ cá bố mẹ bằng thức ăn viên công 
nghiệp (40% đạm và 8% béo) và khoáng (0,5% 
tổng thức ăn) và dầu mực (3% tổng thức ăn) có 
bổ sung thịt ốc bươu (20% tổng thức ăn). Cá 
bố mẹ thành thục đạt 64,6% và tốt hơn nuôi vỗ 
không có thịt ốc bươu. 
- Chọn cá cái sinh sản có đường kính trứng 
>2 mm. Cá cái thành thục được kích thích bằng 
0,5 mg PG và 100 µg LH-RHa + 10 mg DOM /
kg cho tỷ kệ cá rụng trứng cao hơn dùng 0,5 mg 
PG và 2.000 IU HCG/kg.
- Buồng trứng cá cái ở giai đoạn IV có hệ số 
thành thục 7,2%, sức sinh sản tương đối và tuyệt 
đối đạt cao nhất là 23.810 trứng/kg cá cái và 
102.387 trứng/cá cái (cá trọng lượng 4.300g).
- Ương cá trà sóc 20 ngày trong bể mật độ 
ương 1.000 con/m3 cho ăn tổ hợp thức ăn (Moi-
na + lòng đỏ trứng gà + thức ăn bột mịn) là thích 
hợp nhất. Ương cá trà sóc từ hương 25 ngày tuổi 
lên giống 60 ngày tuổi trong ao ở mật độ 50 con/
m3, tỷ lệ sống đạt 60,4-88,9%, trọng lượng 5,4-
5,6 g/con.
5.2 Đề xuất
- Nghiên cứu thêm các yếu tố dinh dưỡng 
(thức ăn theo giai đoạn nuôi) và môi trường 
(thủy lý hóa, dòng chảy) ảnh hưởng đến sự 
thành thục cá bố mẹ nhằm nâng cao các chỉ số 
sinh sản của cá như tỷ lệ thành thục, hệ số thành 
thục và sức sinh sản để xây dựng qui trình nuôi 
vỗ cá bố mẹ hoàn thiện hơn.
- Cần nghiên cứu thêm các thí nghiệm ương 
cá hương lên cá giống ở nhiều mật độ và thức ăn 
khác nhau để xây dựng được quy trình ương cá 
trà sóc hoàn chỉnh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Công ty trách nhiệm hữu hạn Tây nguyên, 2009. Đánh 
giá các loài (loài bản địa và các loài khác) gắn với 
nhu cầu sản xuất trong tương lai nhằm đa dạng 
giống loài thủy sản ở tỉnh Đắk Lắk, 95 trang.
Dương Nhật Long, 2013. Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất 
giống nhân tạo cá heo (Botiamodesta bleeker, 
1865) ở tỉnh An Giang, 87 trang.
Đặng Văn Trường, Hoàng Quang Bảo, Phạm Đình 
Khôi và Thi Thanh Vinh, 2005. Sinh sản nhân tạo 
và ương nuôi cá mè hôi (Osteochilus melanop-
leurus). Tuyển tập Nghề cá sông Cửu long. Viện 
Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, NXB Nông 
nghiệp, 544 trang.
Hoàng Quang Bảo, Phạm Đình Khôi, Thi Thanh Vinh 
và Đặng Văn Trường, 2005. Sinh sản nhân tạo cá 
chài (Leptobarbus hoevenii). Tuyển tập Nghề cá 
sông Cửu Long. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy 
sản 2. NXB Nông nghiệp, 544 trang.
Huỳnh Hữu Ngãi, 2006. Thuần dưỡng, tái tạo và phát 
triển cá hô (Catlotcarpio siamensis). Báo cáo 
khoa học - Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 
2, 30 trang.
Pravdin, I.F., 1963. Hướng dẫn nghiên cứu cá. NXB 
Khoa học và kỹ thuật Hà Nội. Phạm Thị Minh Gi-
ang dịch, 276 trang.
Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, 
Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch Loan, 1992. Định loại 
27TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
các loài cá nước ngọt Nam Bộ, Nhà Xuất bản 
Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 350 trang.
MRC, 2005. Phân bố và sinh thái một số loài cá sông 
quan trọng ở hạ lưu sông Mekong,120 trang.
Nguyễn Đình Trung, 2002. Giáo trình Quản lý chất 
lượng nước trong ao nuôi thủy sản. Đại học Nha 
Trang, 102 trang.
Nguyễn Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ 
sở Khoa học và kỹ thuật sản xuất giống cá. NXB 
Nông nghiệp TPHCM, 215 trang.
Nguyễn Văn Kiểm, 2005. Giáo trình Kỹ thuật sản xuất 
giống. Trường Đại học Cần Thơ, 23 trang.
Phạm Văn Khánh, Đặng Văn Trường, Thi Thanh Vinh, 
Phạm Đình Khôi, Nguyễn Thị Rô, Nguyễn Thị 
Hồng Vân và Nguyễn Tường Anh, 2004. Sinh 
sản nhân tạo cá cóc (Cyclocheilichthys enoplos, 
Bleecker, 1850). Tuyển tập nghề cá sông Cửu 
long, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 143 trang.
Trương Quốc Phú, 2003. Quản lý chất lượng nước 
trong ao nuôi cá nước ngọt. NXB nông nghiệp 
thành phố Hồ Chí Minh, 177 trang.
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1982. Định 
loại cá nước ngọt. Đại Học Cần Thơ, 361 trang.
Thi Thanh Vinh, Đặng Văn Trường, Hoàng Quang Bảo 
và Phạm Đình Khôi, 2005. Kết quả sinh sản nhân 
tạo và ương nuôi cá duồng (Cirrhinus microlepis). 
Tuyển tập Nghề cá sông Cửu Long. Viện Nghiên 
cứu nuôi trồng thủy sản 2. NXB Nông nghiệp, 544 
trang.
Thi Thanh Vinh, 2008. Một số đặc điểm sinh học và 
bước đầu sinh sản nhân tạo cá hô. Luận văn tốt 
nghiệp cao học. Trường Đại học Cần thơ, 59 trang.
Thi Thanh Vinh, 2011. Bảo tồn, lưu giữ nguồn gien và 
giống thủy sản nước ngọt. Báo cáo tổng kết đề tài 
năm Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2, 22 
trang.
Thi Thanh Vinh, 2012. Bảo tồn, lưu giữ nguồn gien và 
giồng thủy sản nước ngọt. Báo cáo tổng kết đề tài 
năm Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2, 21 
trang.
Tài liệu tiếng nước ngoài
Cacot, P., 2008. Domestication of the indigenous fish 
species in Laos, CIRAD-Aquaculture Unit and 
NAFRI-LARReC project.Activity report 15 Jan 
08. Trial on the reproduction of the carp Pa-eun 
Probarbus jullieni with fish breeders collected 
from the Mekong River at the Don Kho Island 
(Dec. 07), 45 p.
Mattson, N.S., Buakhamvongsa, K., Sukumasavin, N., 
Tuan, N., Vibol, O., 2002. Cambodia Mekong gi-
ant fish species: on their management and biology. 
MRC Technical Paper No. 3, Mekong River Com-
mission, Phnom Penh. pp. 29. ISSN: 1683-1489.
Rainboth, W.J., 1996. Fishes of the Cambodian Me-
kong. FAO Species Indentification Field Guide 
For Fisheries Purpose . Roma, FAO, 265, 49 p.
Rodrarung, D., Janesirisak, S., 1990. Induced spawning 
of earthen pond reared Jullien carp. In: Annual 
Report 1990, pp. 114-117. 
Nongkai Inland Fisheries Station. Udonthani Inland 
Fisheries Development Center, Inland Fisheries 
Division, Department of Fisheries, Ministry of 
Agriculture and Cooperatives, Nongkai, Thailand.
Sukumasvavin, N., 2006. Studies on breeding and ge-
netic diversity of an endangered cyprinids of the 
Mêkông river, seven - line barb probarbus jullieni. 
Tohoku university, 179 p.
Fishbase, 2015.
mary.php?ID=5422&gienusname= Probarbus&spe-
ciesname= jullieni. Probarbus jullieni, 
fishbase.org (truy cập ngày 01/02/2015).
28 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
PRemilinaRY ResUlTs oF indUced sPaWning oF 
Probarbus jullieni sauvage, 1880
Thi Thanh Vinh1*, Pham Cu Thien2
ABSTRACT
Probarbus jullieni is one of the critically endangered fish species recorded in the red book. The 
research fish was collected from the natural water bodies and cultured in the earthen ponds in 2005. 
The study on induced spawning started in 2011. Broodstock matured at 60.3% when conditioning 
in the earthen pond by feeding on pelleted feed and the supplements such as squid oil, vitamin and 
mineral. The matured rate reached 64.6% when adding snail flesh into the feed formula during 
broodstock conditioning. Probarbus jullieni matured in the period of October to January and the 
main spawning season was in November and December. The first maturation was at the age of 4+ 
for male and 5+ for female. The mature index of female was at 7.2-7.8%, the relative fecundity was 
23,810 eggs/ kg and the absolute fecundity was 102,387 eggs (the weight of female was 4.3kg). 
The diameter of egg reached 2.05± 0.16 mm. The spawning rate was over 50% when injecting 
LH-RHa+DOM+ PG or HCG+PG. The highest fertilization rate was 59.2%, hatchling rate at 13.9% 
and the survival rate of fry at 71.0%. Nursing of Probarbus jullieni in 20-25 days in the cement tank 
at the density of 500, 1,000 and 1,500 inds/m2 got the survival rate at 65.5%, 63.5% and 55.0%, 
respectively. Nursing Probarbus jullieni in 60 days in the earthen pond had the average growth rate 
at 0.13g/day and the average weight at 5.33g/fish. 
Keywords: Probarbus jullieni, induced spawning, gonadotropin hormone, nursing, survival rate.
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng
Ngày nhận bài: 29/5/2015
Ngày thông qua phản biện: 10/6/2015
Ngày duyệt đăng: 15/6/2015
1 National Breeding Center for Southern Freshwater Aquaculture – Research Institute for Aquaculture No2. 
* Email: vinhthanhthi@yahoo.com 
2 Research Institute for Aquaculture No 2.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_ban_dau_sinh_san_nhan_tao_ca_tra_soc_probarbus_julli.pdf