Hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Biện pháp hủy hợp đồng được xem là chế tài nghiêm khắc nhất, thường được áp dụng khi một bên
có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng một cách nghiêm trọng. Có những trường hợp, việc vi phạm
hợp đồng chưa xảy ra nhưng có những chứng cứ hiển nhiên cho thấy việc một bên sẽ vi phạm hợp
đồng. Nhằm đảm bảo quyền lợi của một bên trong hợp đồng, Công ước Viên 1980 cho phép một
bên áp dụng chế tài hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Trong phạm vi bài
viết này sẽ phân tích điều kiện cũng như các trường hợp áp dụng chế tài hủy hợp đồng trước thời
hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng theo quy định của Công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
ột sự sai sót nghiêm trọng trong bản phát thảo cũng cấu thành một vi phạm dự đoán trước. Khi một bên kết luận rằng bên kia không thể sản xuất một sản phẩm đúng tiêu chuẩn mà họ đưa ra nếu sản xuất theo bản phát thảo đó, bên bị cáo buộc không đưa ra bất kỳ sự đảm bảo nào cho việc khắc phục theo quy định tại Điều 72 (2) CISG, như vậy, đủ yếu tố ‚rõ ràng‛ bên bị cáo buộc không thể thực hiện được hợp đồng, bên cáo buộc có quyền tuyên bố hủy hợp đồng theo Điều 72 CISG. Ngoài ra, những trường hợp sau đây cũng được áp dụng Điều 72(1) liên quan đến người mua: người mua không thanh toán cho các lô hàng trước đó, người mua không mở được thư tín dụng, người mua không mở được thư tín dụng phù hợp, người mua đã không trả tiền cho một lô hàng và không cung cấp một sự đảm bảo đầy đủ về việc thực hiện. Những trường hợp sau đây cũng được áp dụng Điều 72 (1) liên quan đến người bán: người bán không giảm giá và cam kết giao hàng thời trang đúng hạn, người bán cố tình chấm dứt việc giao hàng, người bán từ chối thực hiện yêu cầu rằng toàn bộ một con tàu được thuê riêng để vận chuyển hàng hóa, người bán từ chối cam kết đến ngày giao hàng và khuyên người mua mua hàng hóa thay thế, người bán tuyên bố rằng không thể tìm thấy hàng hóa và khả năng tìm thấy hàng hóa thay thế là thấp, người bán đã cung cấp các bản phác thảo thiếu sót cho việc sản xuất hàng hóa và không cung cấp sự đảm bảo đầy đủ về việc cải thiện chúng kịp thời [4]. Trong vụ Shoes case Germany 14 January 1994 tại Tòa Phúc thẩm Düsseldorf [8]. Vào ngày 31 tháng 3 năm 1992, Người mua đã đặt hàng 140 đôi giày từ Nhà sản xuất giày (Người bán). Người bán không giao giày nếu không nhận được một khoản đảm bảo để thanh toán tiền hàng. Do bên mua vẫn còn các hóa đơn khác chưa thanh toán đúng thời hạn trước đó. Tuy nhiên, Người mua cũng không trả tiền và cung cấp đảm bảo việc thanh toán hóa đơn giày đã đặt. Do đó, Người bán 1508 đã thông báo cho Người mua rằng Người bán sẽ xem xét việc hủy hợp đồng nếu bên mua không cung cấp bảo đảm đầy đủ thanh toán. Người bán không nhận được bảo đảm bên bán đã tuyên bố hủy hợp đồng. Tòa Phúc thẩm khẳng định: ‚Người bán có quyền tuyên bố hủy hợp đồng thứ hai theo Điều 72 (1) và (2) CISG, kể cả trước khi giao hàng rõ ràng là người mua sẽ không trả tiền. Người mua đã không thực hiện theo hợp đồng trước mặc dù người bán đã yêu cầu nó nhiều lần và thậm chí đã bắt đầu một hành động pháp lý... ‛Như vậy việc không đảm bảo khả năng thanh toán tiền hàng cho những hợp đồng trước đó đủ yếu tố rõ ràng rằng bên mua có khả năng gây ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng và bên bán tuyên bố hủy hợp đồng theo Điều 72 CISG để hạn chế tổn thất khi bên mua không thanh toán tiền cho đơn hàng tiếp theo. Những trường hợp sau đây không thể áp dụng Điều 72 CISG: Người bán giữ lại hàng hóa do tranh chấp giữa các bên, người bán bày tỏ sự quan tâm đến việc ngừng giao hàng nhưng cũng đồng ý tiếp tục đàm phán, người mua không trả tiền được một lần [5]. Thứ hai, một bên tuyên bố không thực hiện hợp đồng. Tại Điều 72 (3) CISG quy định: ‚Các quy định của khoản trên không áp dụng nếu bên kia đã tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình‛. Hợp đồng có thể được hủy bởi một bên nếu, như được dự tính rõ ràng như Điều 72 (3) CISG, bên kia từ chối hợp đồng nói trên, thông qua hành động của họ, hoặc bằng cách tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình. Ví dụ, người bán hoặc người mua được coi là đã từ chối hợp đồng nếu người bán hoặc người mua tuyên bố rằng họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình, hoặc nếu người bán hoặc người mua từ chối sự tồn tại của hợp đồng mua bán. Ngoài ra, người bán được coi là đã từ chối hợp đồng nếu người bán bán lại cho bên thứ ba hàng hóa mà người bán đã ký hợp đồng để giao cho người mua, hoặc nếu người bán bán lại nhà máy nơi người bán đã cam kết sản xuất hàng hóa cho người mua, hoặc các máy móc mà người bán đã đồng ý sản xuất hàng hóa cho người mua. Vì vậy, các cáo buộc nếu được chứng minh, người bán nói rằng sẽ ‚không còn cảm thấy bắt buộc‛ phải thực hiện và sẽ ‚bán nguyên liệu ở nơi khác‛ cho phép người mua hủy hợp đồng. Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là nếu bên bị thiệt hại không phản hồi lại việc từ chối bằng cách tuyên bố hủy hợp đồng, người bán có thể phải chấp nhận thực hiện nếu bên từ chối hợp đồng thay đổi quyết định [1]. Sự tuyên bố của một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình ngay lập tức tạo điều kiện cho bên còn lại có quyền hủy hợp đồng theo Điều 72 (1) (3) CISG. Vì căn cứ để hủy hợp đồng là rất ‚rõ ràng‛ dựa trên ý chí của bên tuyên bố, bên tuyên bố hủy hợp đồng đã có căn cứ chắc chắn là bên kia sẽ vi phạm hợp đồng mà không có biện pháp nào khắc phục, bên có khả năng bị vi phạm hợp đồng tuyên bố hủy hợp đồng để xử lý hợp đồng ngay và hạn chế tối đa tổn thất xảy ra. Thứ ba, thông báo trước khi áp dụng biện pháp hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Nếu có đủ căn cứ rõ ràng bên kia sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng, bên có khả năng bị vi phạm hợp đồng phải gửi thông báo cho bên kia thể hiện ý định hủy hợp đồng và cho phép bên có khả năng vi phạm hợp đồng cung cấp những đảm bảo cho khả năng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi đến thời hạn quy định trên hợp đồng. 1509 Căn cứ khoản Điều 72 (2) CISG: ‚Nếu có đủ thời giờ, bên có ý định tuyên bố hủy hợp đồng phải gửi một thông báo cho bên kia một cách hợp lý để cho phép họ cung cấp những đảm bảo đầy đủ rằng họ sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình‛. Việc hủy hợp đồng luôn đi cùng với nghĩa vụ thông báo. Căn cứ Điều 26 CISG quy định ‚Một lời tuyên bố về việc hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được thông báo cho bên kia biết.‛ Điều 72 (2) CISG quy định nếu bên có ý định tuyên bố hủy hợp đồng nếu có đủ thời gian phải thông báo cho bên kia. Tuy nhiên, CISG không quy định như thế nào là ‚có đủ thời giờ‛. Như vậy có thể hiểu là bên có ý định tuyên bố hủy hợp đồng ngay lập tức phải gửi thông báo cho bên còn lại. Vì vậy căn cứ Điều 26 và Điều 72 CISG trường hợp hủy hợp đồng bên tuyên bố hủy hợp đồng phải gửi thông báo về việc hủy hợp đồng cho bên kia và không chậm trễ. Hợp đồng có thể được tuyên bố hủy hợp đồng mà không cần thông báo trước về ý định, nếu thông báo đó sẽ dẫn đến sự chậm trễ sẽ gây phương hại đến lợi ích của bên liên quan. Gửi thông báo về ý định không phải là điều kiện để tuyên bố hủy nếu khoảng thời gian giữa thời điểm thông báo sẽ được đưa ra và hết thời gian thực hiện sẽ quá ngắn để người nhận thông báo cung cấp đảm bảo thực hiện đầy đủ phù hợp với Điều 72 (2) CISG. Nói cách khác, thông báo cho bên kia là không cần thiết trong trường hợp ngày giao hàng gần đến mức không thể đảm bảo đầy đủ kịp thời. Thật vậy, "đối tượng của yêu cầu thông báo là cho phép bên kia cung cấp sự đảm bảo thực hiện đầy đủ.‛ Thông báo phải "hợp lý" và chỉ hợp lý nếu người nhận có cơ hội đảm bảo thực hiện [1]. CISG buộc bên có ý định hủy hợp đồng phải cho phép bên kia thể hiện khả năng thực hiện hợp đồng khi đến hạn. Đây có thể được xem là bước xác minh khả năng thực hiện hợp đồng của bên có khả năng vi phạm nhằm củng cố thêm về sự phán đoán của bên có ý định hủy hợp đồng. Trong trường hợp bên có khả năng vi phạm không thể bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ thì bên còn lại có thể thực hiện chế tài hủy hợp đồngmà không phải lo lắng về phán đoán của mình [2]. 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH HỦY HỢP ĐỒNG TRƯỚC THỜI HẠN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã đem lại cho Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam những lợi ích đáng kể cả về kinh tế lẫn pháp lý. Trong 85 quốc gia thành viên của Công ước Viên năm 1980, có sự góp mặt của các quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển trên mọi châu lục. Hầu hết các cường quốc về kinh tế trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật Bản,) đều đã tham gia CISG. Sự thành công của Công ước Viên 1980 được khẳng định trong thực tiễn với hơn ¾ giao dịch thương mại được CISG điều chỉnh và là một phần không thể thếu trong nền kinh tế nước ta (cả xuất khẩu và nhập khẩu) [3]. Thực tiễn áp dụng biện pháp hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phổ biến ở pháp luật các nước thành viên. Chế tài hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng quy định ở Điều 72 CISG nếu trước ngày quy định cho việc thực hiện hợp đồng mà thấy hiển nhiên rằng một bên sẽ gây ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng, bên kia có thể tuyên bố hủy hợp đồng. Một bên trong hợp đồng có 1510 quyền tuyên bố hủy hợp đồng trước ngày thực hiện hợp đồng nếu có bằng chứng cho rằng bên còn lại không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Trong Luật Thương mại 2005 Khoản 2 Điều 313 quy định ‚Trường hợp một bên không thực hiện nghĩa vụ đối với một lần giao hàng, cung ứng dịch vụ là cơ sở để bên kia kết luận rằng vi phạm cơ bản sẽ xảy ra đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó thì bên bị vi phạm có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó, với điều kiện là bên đó phải thực hiện quyền này trong thời gian hợp lý‛. Theo đó một bên có quyền hủy hợp đồng nếu trước đó bên còn lại không thực hiện nghĩa vụ cho một lần giao hàng hay cung ứng dịch vụ làm cơ sở để hủy hợp đồng cho những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó. Khác với CISG Luật Thương mại 2005 cho phép bên bị vi phạm hợp đồng hủy hợp đồng khi hợp đồng bắt đầu có hiệu lực bên thực hiện nghĩa vụ vi phạm một phần hợp đồng là căn cứ để bên bị vi phạm hủy một phần hợp đồng còn lại. CISG cho phép bên bị vi phạm tuyên bố hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ khi thấy chắc chắn rằng bên còn lại sẽ vi phạm cơ bản hợp đồng, không để đến khi bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ thì có căn cứ xác định vi phạm mà CISG cho phép bên bị vi phạm được quyền hủy hợp đồng nếu chắc chắn rằng bên còn lại sẽ gây ra một vi phạm cơ bản đến hợp đồng khi hợp đồng chưa được thực hiện. Luật Thương mại 2005 chỉ thừa nhận việc hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng giao hàng từng phần, cung ứng dịch vụ. CISG cho phép hủy mọi hợp đồng trong phạm vi áp dụng của công ước (CISG không áp dụng cho hợp đồng cung ứng dịch vụ Điều 3.2 CISG). Trong Bộ luật Dân sự 2015 Điều 425 quy định ‚Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại‛. Theo quy định tại Điều 425 BLDS thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền hủy hợp đồng khi bên vi phạm không thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩ vụ của mình, vì nhiều nguyên nhân khác nhau như: không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan Tương tự như luật thương mại bộ luật dân sự cho phép bên bị vi phạm có quyền hủy hợp đồng. Khi hợp đồng bắt đầu thực hiện mà bên vi phạm không có khả năng thực hiện được hợp đồng thì bên có quyền yêu cầu hủy hợp đồng. Việc không thực hiện được nghĩa vụ cả hai bên trong hợp đồng đều thấy rõ ràng sự vi phạm. Bên có quyền nhận thấy bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dẫn đến mục đích hợp đồng không đạt được nên việc hủy hợp đồng trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện và yêu cầu bồi thường thiệt hại là việc cần thiết để tránh những tổn thất không đáng có. Có thể nhận thấy Điều 72 CISG quy định một bên hủy hợp đồng khi bên còn lại chưa đến hạn thực hiện hợp đồng. Luật Thương mại 2005 cho phép bên bị vi phạm hủy trong trường hợp giao kết hợp đồng giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần mà bên vi phạm đã vi phạm trong việc thực hiện nghĩa vụ trước đó. Ở đây điểm giống nhau là Luật Thương mại 2005 cho phép hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng cho những lần giao hàng tiếp theo mà bên bị vi phạm cho rằng việc không thực hiện nghĩa vụ cho lần giao hàng trước đó dẫn đến những lần giao hàng tiếp theo sẽ không có khả năng thực hiện. Vì vậy pháp luật Việt Nam cần học hỏi CISG quy định chi tiết hơn trong trường hợp hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nhằm giúp cho 1511 bên bị vi phạm chủ động hơn, đặc biệt là khi bên kia cố ý hoặc tuyên bố rõ ràng ý định không thực hiện hợp đồng. Tóm lại, qua những vấn đề phân tích tác giả nhận ra rằng biện pháp hủy hợp đồng dựa trên một vi phạm được dự đoán trước chứ không phải là một hành vi thực sự xảy ra cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Mục đích chính của CISG là bảo vệ lợi ích của bên mà họ đã trở nên "rõ ràng" một cách khách quan sau khi ký kết hợp đồng, rằng bên kia sẽ vi phạm cơ bản. Luật Thương mại 2005 đã có đề cập đến vấn đề hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có đề cập nhưng chưa được hoàn chỉnh. CISG đã có điểm tiến bộ vượt trội hơn so với pháp luật Việt Nam. Một bên không nên tiếp tục bị ràng buộc bởi hợp đồng khi bên kia không thể thực hiện được nghĩa vụ cơ bản của mình, thậm chí là trước thời hạn các bên thực hiện hợp đồng. Pháp luật hợp đồng của Việt Nam nên học hỏi CISG hoàn thiện quy định hủy hợp đồng trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Hiện nay luật thương mại năm 2005 mới cho phép hủy hợp đồng khi có hành vi vi phạm của một bên. Nói cách khác, cơ sở hủy hợp đồng của Luật Thương mại năm 2005 là hành vi vi phạm và những tổn thất thực tế. Tuy nhiên, cơ sở hủy hợp đồng của Công ước Viên năm 1980 lại là khả năng thực tế mà một bên gây ra hành vi vi phạm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Mercédeh Azeredo da Silveira, Anticipatory Breach under the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods, xem tại https://cisgw3.law.pace.edu/cisg/biblio/azeredo.html#iii. Truy cập ngày 25/5/2020. [2] Tài liệu học tập Luật Thương mại quốc tế, 2019, Trường Đại học Công nghệ TP.HCM, Nguyễn Chí Thắng. [3] Ủy ban tư vấn về Chính sách Thương mại Quốc tế - VCCI, Báo cáo đề xuất Việt Nam gia nhập Công ước Viên 1980. Nguồn: nam-gia-nhap-cong-uoc-vien-1980 truy cập ngày 26/4/2020. [4] UNCITRAL Digest of case law on the United Nations Convention on the International Sale of Goods, 2012, Digest of Article 72 case law‛, mục 6 và 7. Nguồn truy cập ngày 20/4/2020. [5] Digest of case law on the United Nations Convention on the International Sale of Goods, 2012, Digest of Article 72 case law‛, mục 8. Nguồn 2012-72.html#10 [6] Vụ Computer equipment số 161/1994 tại Trọng tài thương mại quốc tế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Liên Bang Nga Xem tình tiết và phán quyết vụ kiện tại [7] Vụ Shoes 1992 tại Tòa án Quận Berlin, Đức, Xem tình tiết và phán quyết vụ kiện tại [8] Vụ Shoes case Germany 14 January 1994 tại Tòa phúc thẩm Düsseldorf, Xem tình tiết và phán quyết tại
File đính kèm:
- huy_hop_dong_truoc_thoi_han_thuc_hien_nghia_vu_hop_dong_theo.pdf