Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 02/2013
SO SÁNH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG KÍCH THÍCH TỐ KHÁC NHAU KÍCH THÍCH SINH SẢN CÁ BÔNG LAU (Pangasius krempfi) TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI NHỐT
TÓM TẮT Cá bông lau không sinh sản tự nhiên trong điều kiện nuôi nhốt mà cần phải có sự tác dụng của kích dục tố. Đối với cá cái dùng phương pháp tiêm nhiều liều, bao gồm 4 liều dẫn là 500 UI HCG/kg hoặc não thùy tươi của cá chép (3 kg cá cho não dùng cho 8 kg cá nhận não), một liều sơ bộ 1.500 UIHCG/kg và một liều quyết định 6.000 UI HCG/kg. Đối với cá đực chỉ dùng một liều 2.000 UI HCG/kg, tiêm cùng thời điểm với liều quyết định của cá cái. Thời gian hiệu ứng kích thích tố dao động từ 9 giờ 30 đến 14 giờ 30 phút, tỷ lệ thụ tinh dao động từ 7,1 – 73,4% (trung bình 39,9 ± 24,9%). Cá nở sau thời gian từ 24 đến 36 giờ ở nhiệt độ nước từ 27 – 29 0C, tỷ lệ nở dao động từ 57 – 91,5% (trung bình 66,4 ± 14,5%). Từ khóa: cá bông lau, sinh sản nhân tạo, kích dục tố.
I. GIỚI THIỆU Kích thích sinh sản nhân tạo đóng vai trò quan trọng trong sản xuất giống các loài cá nuôi. Trong điều kiện nuôi nhốt, sự phát triển tuyến sinh dục hoặc tái thành thục thường xảy ra một cách bình thường. Nhưng ở cá không tự sinh sản được trong điều kiện nuôi vì quá trình sinh sản bị ức chế bởi những yếu tố môi trường ngăn cản sự chín và rụng trứng (Nguyễn Tường Anh, 1997). Việc kích thích sinh sản chính là dựa vào những nguyên lý chung về sinh học trong quá trình sinh sản tự nhiên của cá. Trong điều kiện nuôi nhốt, các yếu tố sinh thái có thể để cá sinh sản tự nhiên. Việc tiêm các chất kích dục tố nhằm thúc đẩy hoạt động nội tiết của tuyến yên, kích thích quá trình chín, rụng trứng và tạo tinh. Cá bông lau không đẻ tự nhiên trong điều kiện nuôi vỗ nhân tạo. Phạm Văn Khánh (1996) Báo cáo HCG (Human Chorionic Gonadotropin, kích dục tố màng đệm) có thể thay thế cho não thùy trong sinh sản nhân tạo cá tra, cũng như có thể được dùng phối hợp với não thùy trong liều tiêm quyết định. Nguyễn Tuần (2000) cho rằng sử dụng HCG đơn thuần hoặc kết hợp với não thùy thể để kích thích cho cá basa sinh sản đều cho kết quả. Cá bông lau thuộc giống Pangasius có đặc tính tương tự cá tra và basa, do đó có cơ sở để tiến hành thử nghiệm sinh sản nhân tạo sử dụng HCG và não thùy (đơn và kết hợp) nhằm xác định thời gian hiệu ứng của hai loại kích dục tố này trên cá bông lau và theo dõi các chỉ tiêu sinh sản và quá trình phát triển phôi
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 02/2013
hơn trong công tác chuẩn bị đất, góp phần nâng cao năng suất lúa, một số giải pháp trước mắt cần quan tâm là: (i) Mỗi hộ quan tâm và chủ động hơn công tác bơm nước ngọt rửa mặn, phèn bằng cách chuẩn bị máy bơm nước ngay từ đầu mùa mưa và tại thời điểm mưa. (ii) Ngoài những mương chính như thiết kế cho nuôi tôm vào mùa khô, cần thiết kế thêm một số rãnh phụ ngay trên trảng để phèn và mặn trôi chảy xuống rãnh góp phần cho đất được ngọt hóa dễ dàng và nhanh chống hơn. (iii) Tranh thủ thời điểm mưa đầu mùa tiến hành cầy/bừa/trục đất ngay, ngoài việc giúp cho đất tơi xóp, màu mỡ còn giúp cho công việc rửa phèn và mặn thuận lợi hơn. (iv) Nên bón vôi hạ phèn ngay khi bừa/trục với liều lượng từ 150-200 kg vôi CaCO3/ha. Ø Lúa giống và xuống giống Các giải pháp trong chọn giống lúa và xuống giống góp phần nâng cao năng suất, sản lượng là: (i) Nên chọn những giống lúa mới có những phẩm chất tốt như: giống trung, ngắn ngày, chịu mặn chịu phèn tốt, kháng trừ sâu bệnh cao thay thế dần những giống lúa mùa địa phương thông qua trung tâm giống địa phương 158 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 hoặc trường, viện. (ii) Thường xuyên theo dõi thông tin dự báo thời tiết để có kế hoạch trong lịch mùa vụ xuống giống. (iii) Đối với những nơi thuận lợi hơn về nước có độ mặn thấp (ví dụ như Kiên Giang) hoặc lượng mưa nhiều và sớm, có thể sạ thẳng lúa trên trảng để tiết kiệm chi phí (công cấy) và bộ rễ mới của lúa dễ dàng tiếp xúc với lớp đất ngọt trên bề mặt. Đối với những nơi ngọt hóa khó khăn, chậm và độ mặn xâm nhập sớm vào cuối vụ (như Cà Mau và Bạc Liêu) nên gieo mạ trước trên bờ hoặc vườn hoặc nơi thuận lợi nước ngọt, sau đó nhổ và cấy. (iv) Về phía tổ chức, chính quyền cần tăng cường công tác quảng bá thông tin bằng nhiều hình thức khác nhau và hỗ trợ thực hiện mô hình nghiên cứu trình diễn các bộ giống lúa mới với những phẩm chất tốt một cách sâu rộng hơn nữa. Ø Chăm sóc và tưới tiêu cho lúa Để khắc phục các trở ngại về tưới tiêu cho lúa, một số giải pháp cần quan tâm như sau: (i) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc mua bán thuốc nông dược, hóa chất bảo vệ thực vật để người sản xuất an tâm trong việc mua và sử dụng, không lo ngại sự tồn lưu, ảnh hưởng đến vật nuôi thủy sản và có được giá cả ổn định. Khuyến khích mở rộng đại lý/cửa hàng mua bán vật tư, hàng hóa, thuốc nông nghiệp đến tận vùng sâu. (ii) Tăng cường tập huấn kỹ thuật về phòng chống sâu bệnh cho lúa, hướng dẫn sử dụng thuốc nông dược đúng cách, đúng liều, và phân tích ý nghĩa của việc trồng lúa luân canh với nuôi tôm trong bảo vệ môi trường, giảm chi phí và góp phần ổn định thu nhập. (iii) Hộ canh tác lúa cần quan tâm hơn khâu quản lý, chăm sóc và phòng trị bệnh cho cây lúa. Việc phòng trừ cỏ dại hay phòng trừ bệnh cho cây lúa, nếu có điều kiện lao động tốt nhất thực hiện thủ công. (iv) Mỗi hộ nên trang bị máy bơm nước để chủ động trong việc điều tiết nước và tưới tiêu cho đồng ruộng. Ø Mối tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận trong sản xuất lúa Sau khi sàng lọc các biến độc lập cần thiết có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mô hình hồi quy đa biến được thiết lập với chỉ 4 biến độc lập có tác động đồng thời (cùng lúc) được viết ở dạng sau: Y = 384,87 + 376,61 X1 + 2,83 X2 +3,43 X3 + 0,39 X4 (2) Với, Y năng suất lúa (kg/ha/năm); X1 loại lúa giống (Một bụi đỏ, OM2517; Khác); X2 lượng vôi sử dụng (kg/ha/vụ); X3 lượng phân vô cơ sử dụng (kg/ha/vụ); X4 chi phí nông dược (đ/ha/vụ). Một số biến độc lập khác quan trọng về lý luận cũng được đưa thêm vào mô hình hồi quy trên, nhưng các biến được đưa thêm không có tác động ở mức có ý nghĩa thống kê trong mô hình với bộ số liệu có từ khảo sát. Một số kết luận rút ra từ phương trình (2) như sau: Loại giống lúa chủ yếu được người dân lựa chọn sản xuất là Một bụi đỏ và OM2517. Đây là 2 giống lúa cho năng suất cao hơn các giống khác và giống Một bụi đỏ cho năng suất cao hơn. Số hộ có sử dụng vôi trong thời gian canh tác lúa cho hiệu quả năng suất và kinh tế cao so với số hộ không sử dụng vôi, tăng khoảng 521,2 kg/ha/vụ về năng suất và 0,72 tr.đ/ha/vụ về lợi nhuận. Khi tăng lượng vôi bón lên 1,0 kg/ha/vụ so với hiện nay (70 kg/ha/vụ) có thể cho năng suất tăng thêm 2,8 kg/ha/vụ. Kết quả so sánh thể hiện lượng vôi thích hợp nhất là 156,2 kg/ha/vụ. Khi tăng lượng phân vô cơ bón cho lúa lên 1,0 kg/ha/vụ so với hiện nay (50-100 kg/ha/vụ) thì có thể cho năng suất tăng thêm 3,43 kg/ha/ vụ. Số hộ có sử dụng phân vô cơ để bón cho lúa cho năng suất và lợi nhuận cao khoảng 474,2 kg/ha/vụ so với số hộ không sử dụng. Với số liệu thu thập được cho thấy chất thải của vụ nuôi tôm trước giúp giảm chi phí phân bón cho 159TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 lúa khoảng 30,8%. Do vậy, phải cân nhắc việc sử dụng lượng phân. Kết quả so sánh thể hiện lượng phân vô cơ sử dụng là 150-180 kg/ha/vụ sẽ cho năng suất và lợi nhuận tốt. Khi sử dụng thuốc nông dược tăng 1.000 đồng/ha/vụ thì còn có thể giúp tăng năng suất lúa khoảng 0,39 kg/ha/vụ. Đối với các hộ có sử dụng nông dược thì mức chi 0,3-0,6 triệu đ/ha/ vụ cho lợi nhuận cao nhất. Một số lưu ý khác trong quá trình thiết lập và phân tích mô hình hồi quy đa biến, gồm: Tuy kinh nghiệm sản xuất mô hình T-L không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi quy. Nhưng một số hộ mới tham gia vào sản xuất T-L có kiến thức chuyên môn và mức đầu tư khá hơn nên đạt kết quả tốt hơn. Số hộ có tham gia tập huấn về sản xuất T-L cho hiệu quả kinh tế-kỹ thuật cao hơn so với số hộ không tham gia tập huấn, nhưng không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi quy. Tổng diện tích gieo cấy thực tế không có ý nghĩa thống kê. Nhưng các hộ có diện tích từ 0,5-1,0 ha cho năng suất và lợi nhuận lúa tốt hơn có thể do quản lý và đầu tư thuận lợi hơn. Tỷ lệ diện tích mương/diện tích mô hình T-L cũng không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi quy đa biến. Làm kỹ hơn khâu cải tạo đất ruộng trước khi sạ/cấy lúa và chi phí hợp lý hơn so với hiện nay sẽ giúp mang lại hiệu quả cao hơn. Độ mặn để lúa phát triển tốt là ở mức thấp dưới 2‰, nhưng độ mặn không vượt quá 1,0‰ thì tốt cho cả năng suất và lợi nhuận lúa. Sạ lan với lượng lúa giống không vượt mức 100 kg/ha cho năng suất và lợi nhuận tốt. Mặc dù sạ với lượng giống khoảng 100-160 kg/ha cho năng suất cao nhất nhưng lợi nhuận không cao. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Ø Một số rủi ro và hạn chế Người quyết định “kỹ thuật” trong canh tác T-L có trình độ học vấn thấp, kiến thức về canh tác T-L hạn chế và thường xuyên bận với nhiều công việc khác nhau. Hầu hết người dân thiếu vốn cho nâng cấp và thiết kế mới mương cấp thoát nước, mương rửa phèn, ao ương, cải tạo ao/ruộng và mua tôm giống, vật tư, trang thiết bị phục vụ sản xuất. Chưa quan tâm đúng mức về các giải kỹ thuật canh tác T-L như: giải pháp quản lý môi trường, giải pháp về vôi, phân, thuốc và thụ động trong công việc quản lý bệnh và điều tiết nước. Mực nước trong vuông/ruộng không ổn định bởi bị rò rỉ, nước bốc hơi nhanh. Nhiều hộ nuôi không quan tâm đến chất lượng tôm giống, thả nhiều lần/vụ với thả mật độ dày. Khả năng chịu mặn, chịu phèn của giống lúa mùa kém, thời gian sinh trưởng dài, nguồn gốc lúa giống từ vụ/năm trước nên khả năng miễn dịch sâu bệnh thấp, dễ thoái hóa. Mô hình canh tác tôm vào mùa khô luân canh trồng lúa vào mùa mưa hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết, chế độ thủy triều và lượng mưa hàng năm. Nông hộ không chủ động được trong điều tiết nước mặn/ngọt dự trữ cho canh tác T-L. Ø Một số giải pháp khắc phục chính: Tăng cường công tác tập huấn khuyến nông khuyến ngư; Khuyến khích mở thêm đại lý/của hàng cung cấp vật tư nông-thủy sản tại nơi canh tác T-L; Nhà nước hỗ trợ thêm vốn vay ưu đãi, giãn nợ vốn vay; hỗ trợ xét nghiệm tôm giống. 160 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Gia cố lại bờ bao, mở rộng thêm mương, xây dựng mương cấp thoát nước riêng, xây dựng ao ương dưỡng hoặc xây dựng thêm ao nuôi mật độ cao (nếu có điều kiện); Mỗi hộ trang bị 1 máy bơm nước và lấy nước qua túi lọc/lưới lọc nước. Nên quan tâm đến chất lượng tôm giống và chọn tôm giống có nguồn gốc, từ trại uy tín và nên xét nghiệm tôm giống; nên thả 1-2 lần/ vụ với mật độ vừa phải; giống nên được ương dưỡng trước trong ao ương và thả hợp lý nhất khi độ mặn đạt từ trên 8%o. Lúa giống nên chọn mua từ trại sản xuất giống hoặc trung tâm giống, viện, trường có khả năng chịu phèn, mặn và kháng trừ sâu bệnh; giống có thời gian sinh trưởng ngắn và trung ngày. Cần quan tâm hơn về kỹ thuật canh tác T-L như sử dụng vôi, phân, tăng kiềm, vi sinh, thuốc cho vuông/ruộng và thay nước có kiểm soát. Nên thả ghép tôm với cua, cá để góp phần cải thiện môi trường và tăng thu nhập. 5.2. Đề xuất Nghiên cứu thiết kế lại hệ thống vuông/ ruộng với diện tích ao ương, ao nuôi mật độ cao phù hợp để góp phần cải thiện năng suất, sản lượng và tăng thu nhập cho hộ nuôi tôm vào mùa khô, và tận dụng những ao này để nuôi các đối tượng nước ngọt và chứa nước ngọt tưới tiêu cho lúa khi nắng cục bộ xảy ra. Khiển khai nghiên cứu thực nghiệm các mô hình nuôi tôm trên các vùng sinh thái khác nhau để xây dựng thành mô hình chuẩn, góp phần tìm ra mô hình sản xuất ổn định về năng suất, sản lượng và tăng thu nhập cho người dân canh tác mô hình T-L, như: (i) Mô hình ương tôm giống khoảng từ 20-45 ngày trước khi thả ra vuông nuôi QCCT; (ii) Mô hình nuôi tôm mật độ cao để tăng năng suất và thu nhập; (iii) Mô hình nuôi QCCT thả mật độ thưa với 1-2 lần thả giống/vụ. Nghiên cứu các bộ giống lúa cao sản, trung và ngắn ngày, có năng suất cao, kháng trừ sâu bệnh và chịu phèn, mặn tại các vùng sinh thái nhiễm mặn khác nhau của ĐBSCL. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. Thiều Lư, Đỗ Văn Hoàng, Nguyễn Công Thành, Đặng Văn An, Trần Văn Tứ, 2006. Nghiên cứu ổn định sản lượng trong mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến bằng cách quản lý sức khoẻ tôm hợp lý. Báo cáo Khoa học. Phân Viện NCTS Minh Hải. Lê Sâm, 2003. Xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long. NXB Nông Nghiệp. Lê Xuân Sinh, 2010. Giáo trình Kinh tế thủy sản. Đại học Cần Thơ. Sở NN&PTNT Bạc Liêu, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. Sở NN&PTNT Cà Mau, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. Sở NN&PTNT Kiên Giang, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. 161TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 RISKS AND LIMITATIONS OF THE RICE-SHRIMP FARMING SYSTEM IN CA MAU PENINSULA AND HARMONY SOLUTIONS Nguyen Cong Thanh1, Nguyen Van Hao2 , Le Xuan Sinh3, Dang Thi Phuong3 ABSTRACT Results of statistical analysis of multiple options and cross analysis, combined with the method of multivariable linear regression analysis of the form Y = Ai + B1.X1 + B2.X2 + ... + Bn.Xn + ε of170 households of the rice-shrimp rotation model in the coastal border districts of the three provinces of Ca Mau, Bạc Liêu and Kien Giang. Some risks; some correlations between the factors of yield and profits; and harmony solutions are as follows: For shrimp crop: (i) When the cost of pond prepara- tion increases 1 million VND/ha/crop compared with the current average cost of pond preparation it can help increase 7.0% in shrimp yield; however, when this costs in excess of 5.0 million VND/ ha/year, profits will be reduced. (ii) When the additionally stocking density rise 1% compare to the first stocking (4,1 shrimps/m2), it can help to increase in 6.1% fo shrimp yield, but total seed density for all stockings will be the best of about 8 shrimps/m2. (iii) The average stocking number of times as currently practices has no good effect. It is advised to stock only 1-2 times/crop since stocking more than 2 times per crop resulted in bad influence on both yield and profits. (iv) Increased 1.0 cm above the current water level (27.8 cm) can help to increase 2.5% in yield. The most suitable water level for shrimp farming system in the current rice-shrimp model is 50-60 cm on the rice- field. (v) When stocking in polyculture of shrimp with crab and fish, it can help to increase shrimp yield by 1.5%. Another note (vi) Increase by 1 ha of the current rice-shrimp farming area will be able to help increase yield of 25.74 kg/ha/crop and obtain better profits. For the rice crop: (i) The households were be passived role of salinity clearing and they were less to care about of ditchs- alum designing. (ii) The households applied lime resulted in additionally effective yield and profit (additional 521.2 kg/ha/crop and additional profits of 0.72 million VND/ha/crop) that is higher than the households who did not apply lime. When increase the amount of applied lime by 1.0 kg/ha/crop compared to the current amount (70 kg/ha/crop), it can increase the rice yield in 2.8 kg/ha/crop. It is recommended to apply lime of 200kg/ha/crop for suitable. (iii) When increasing the amount of inorganic fertilizer for rice by 1.0kg/ha/crop compared to the current amount of inorganic fertilizer (156,2 kg/ha/crop), it will increase yield of 3.43kg/ha/crop. It is recommended to apply inorganic fertilizer of around 200-250kg/ha/crop for good yield and profit. The collected data showed that 162 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 wastes of shrimp farming crop can help to reduce the cost of fertilizer for rice in about 30.8%. (iv) When increasing agricultural drugs by 1,000 VND/ha/ crop, it can also help to increase rice yield by 0.39kg/ha/crop; however, this cost should be of around 0.3 to 0.6 million VND/ha/crop for highest profit. Some other notes: (iv) Salinity for rice to grow well should be below 2%o and it is good for both yield and profit if salinity is less than 1.0‰. (v) Rice sowing with the rice seed of less than 100kg/ha result in both good yield and good profit. Although rice sowing at 100-160kg of rice seed per ha result in good yield, it does not bring in good profit. Keywords: risks, remdy solutions, profit, yield, rice-shrimp. Người phản biện: ThS. Vũ Vi An Ngày nhận bài: 10/9/2013 Ngày thông qua phản biện: 20/9/2013 Ngày duyệt đăng: 15/10/2013 1 Minh Hai Sub-Institute for Fisheries Research, Research Institute for Aquaculture No 2. E-mail: ncthanh444789@yahoo.com 2 Research Institute for Aquaculture No 2. 3 College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University.
File đính kèm:
- tap_chi_nghe_ca_song_cuu_long_so_022013.pdf