Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019

TÓM TẮT

Sông Mê Công chảy vào Việt Nam qua hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, cá bột và cá con trôi dạt

theo dòng nước về phía hạ lưu sau đó phân tán vào ruộng đồng, kênh rạch để sinh trưởng và phát

triển, trong đó có họ Pangasiidae vốn có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu

Long. Nghiên cứu sự đa dạng và phong phú cá bột và cá con ở thượng nguồn sông Tiền và sông

Hậu gần biên giới Campuchia được thu mẫu hàng ngày từ 01/06 đến 30/09 trong 3 năm 2017, 2018

và 2019 tại thời điểm nước ròng, bằng hai loại ngư cụ Lú và Đáy. Mẫu cá được lưu trữ trong keo

nhựa với nồng độ formol 5%, sau đó mẫu được định dạng và phân tích tại phòng thí nghiệm Ngư

Loại, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Tổng cộng 2.775 mẫu được thu với 64.994 cá thể

thuộc họ cá tra đại diện cho 11 loài, trong đó 7 loài ở sông Hậu và 10 loài ở sông Tiền. Thành phần

loài của họ Pangasiidae tương đối ổn định qua các năm, trong khi mật độ và số lượng cá thể giảm

mạnh. Xu hướng thành phần loài và mật độ cá thể giảm dần từ đầu mùa lũ về cuối mùa lũ. Mức độ

đa dạng loài họ cá Tra (Pangasiidae) ở mức thấp và trung bình, tại trạm sông Tiền có mức độ đa

dạng loài cao hơn sông Hậu. Sự thay đổi chế độ lũ trên thượng nguồn sông Mê Công trong những

năm gần đây đã làm thay đổi đến các bãi đẻ của cá, thời gian sinh sản và lượng cá được sinh sản.

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 1

Trang 1

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 2

Trang 2

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 3

Trang 3

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 4

Trang 4

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 5

Trang 5

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 6

Trang 6

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 7

Trang 7

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 8

Trang 8

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 9

Trang 9

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 20620
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019

Mức độ đa dạng và phong phú của cá bột và cá con thuộc họ Pangasiidae ở thượng nguồn sông Tiền và sông Hậu giai đoạn 2017-2019
sông Tiền và 1.333 cá thể ở sông Hậu và đứng 
thứ 3 là loài cá Hú (Pangasius conchophilus) 
chiếm 1,88% với 1.086 cá thể ở sông Tiền và 
116 cá thể ở sông Hậu. 
Bảng 2. Thành phần loài họ cá Tra xuất hiện theo tháng qua các năm.
Thời gian Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tổng
Năm 2017 6 7 8 5 8
Năm 2018 5 6 5 5 8
Năm 2019 6 4 6 6 7
Tổng 6 9 7 8 11
Bảng 2 cho thấy sự biến động số loài thuộc 
họ cá Tra qua các năm tương đối ổn định dao 
động từ 7-8 loài, và sự biến động số loài ở các 
tháng qua các năm không có sự khác biệt lớn 
nhưng số loài cao nhất thường tập trung vào 
tháng 7 và tháng 8 (giữa vụ). 
3.2. Biến động mật độ (cá thể/1.000 m3 
nước) cá bột và cá con thuộc họ cá Tra
Hình 4. Biến động mật độ (cá thể/1.000m3) theo năm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mật độ cá bột 
và cá con tại trạm sông Hậu giảm qua các năm, 
năm 2017 là 120 cá thể/1.000 m3 nước đến năm 
2019 chỉ còn 1 cá thể/1.000 m3 nước. Tại trạm 
sông Tiền có sự gia tăng về mật độ cá thể vào 
năm 2019 với 25 cá thể/1.000 m3 nước, trong 
khi đó năm 2018 chỉ ở mức 4 cá thể/1.000 m3 
nước. Điều này chứng tỏ mực nước lũ và dòng 
chảy của nước ảnh hưởng rất lớn đến sự trôi 
dạt mật độ cá bột và cá con ở hai thủy vực sông 
Tiền và sông Hậu (Hình 4).
Mật độ cá thể của cá bột và cá con biến động 
theo xu hướng giảm dần từ đầu mùa lũ (tháng 6) 
đến cuối mùa lũ (tháng 9), cụ thể tại sông Tiền 
vào tháng 6/2017 là 87 cá thể/1.000 m3 nước, 
đến tháng 9/2017 là 1 cá thể/1.000 m3 nước và 
tại sông Hậu lần lượt là 134 cá thể/1.000 m3 
nước và 1 cá thể/1.000 m3 nước. Khi so sánh 
mật độ cá bột và cá con theo các ngày trong 
tháng, thời gian đầu mùa lũ mật độ luôn cao và 
giảm dần vào cuối mùa lũ. Điều này chứng tỏ 
mùa vụ sinh sản của các loài cá trong họ cá Tra 
(Pangasiidae) là vào đầu mùa lũ (Hình 5). 
87TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 5. Biến động mật độ (cá thể/1.000 m3) theo tháng qua các năm.
3.3. Mức độ đa dạng loài thuộc họ cá tra 
(Pangasiidae)
Nhìn chung, chỉ số đa dạng (H’) đều thấp 
ở hai trạm sông Tiền và sông Hậu qua các năm 
nghiên cứu. Sông Tiền có chỉ số đa dạng (H’) 
cao hơn ở sông Hậu theo từng năm thông qua 
chỉ số đo Shannon – Weiner (H’) (Bảng 3).
Bảng 3. Số cá thể, số loài và chỉ số đa dạng (H’) giữa hai trạm thu mẫu.
2017 2018 2019
Sông Tiền Sông Hậu Sông Tiền Sông Hậu Sông Tiền Sông Hậu
Số cá thể (con) 43.622 14.224 3.929 659 2.297 285
Số loài 8 5 7 7 7 6
Chỉ số đa dạng H’ 0,58 0,32 1,09 0,90 0,98 0,81
Mức độ đa dạng Thấp Thấp
Bình 
thường
Bình 
thường
Bình 
thường
Bình 
thường
Mức độ đa dạng thành phần loài thuộc họ 
cá Tra của hai sông qua các năm quan trắc đều ở 
mức thấp đến mức trung bình, kém đa dạng và 
phong phú. Một trong những nguyên do có thể 
nhận định là do việc xây dựng các đập thủy điện 
trên dòng chính ở thượng nguồn sông Mê Công, 
cùng với những thay đổi khí tượng thủy văn, 
tình hình biến động chế độ lũ và biến đổi khí 
hậu, các hoạt động khai thác, hoạt động kinh tế 
xã hội và chế độ lũ trên lưu vực sông làm phá vỡ 
các bãi đẽ, bãi giống của các loài cá trên thượng 
nguồn, nơi sinh sản chủ yếu của các loài cá di 
cư xuống vùng ĐBSCL bị ảnh hưởng đặc biệt 
là họ cá Tra (Pangasiidae). Kết quả đo đạc của 
Đài khí tượng thủy văn Nam Bộ cho thấy mực 
nước lũ năm 2019 về trễ hơn mọi năm bắt đầu từ 
tháng 7 và kết thúc sớm hơn mọi năm vào tháng 
9 là một trong những nguyên nhân tác động đến 
sự đa dạng thành phần loài, mật độ cá bột và cá 
con trong năm 2019.
88 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
3.4. Biến động chiều dài của một số loài cá qua các năm
Hình 6. Biến động chiều dài của một số loài cá phổ biến tại hai trạm thu mẫu.
Kết quả đo đạc chiều dài cá bột và cá con đã 
cho thấy chiều dài biến động trong khoảng 26 – 
39 mm. Tùy thuộc từng loài và từng thời điểm 
sinh sản khác nhau của mỗi loài cá nên kích 
thước của mỗi loài sẽ khác nhau. Biến động 
chiều dài có xu hướng tăng qua các năm quan 
trắc, cụ thể loài cá hú năm 2017 là 13 mm đến 
2019 là 21 mm. Biến động chiều dài của một 
số loài cá di cư phổ biến được thể hiện trong 
Hình 6.
Bảng 4. Tần suất chiều dài và ước tính ngày tuổi của 4 loài cá di cư quan trọng.
STT Tên khoa học
Tổng cá 
thể (con)
Chiều dài 
nhỏ nhất 
(mm)
Chiều dài 
lớn nhất 
(mm)
Chiều dài 
trung bình 
(mm)
Tuổi ước tính (ngày)
1
Pangasianodon 
hypophthalmus
12.362 10,3 95 40,99 ± 23,1 10-95 (PL - J)/(PL)
2
Pangasius 
conchophilus
18 8 65 16,54 ± 15,41 8-65 (PL - J)/(PL)
3
Pangasius 
larnaudiei
538 25 86 43,22 ± 10,53 25-86 (PL - J)/(PL)
4
Pangasius 
macronema
23.695 11 92 34,77 ± 13,97 11-92 (PL - J)/(PL)
Kết quả đo tần suất chiều dài các loài cá cho 
thấy hầu hết các cá thể được đo đều thuộc giai 
đoạn cá giống, số ngày tuổi cá bắt được từ 8 – 95 
ngày và nơi các cá thể này được sinh sản cách 
trạm thu mẫu từ 73 - 1.245 km về phía thượng 
nguồn của sông (Campuchia). Kết quả này căn 
cứ dựa vào chiều dài của cá bột và cá con xác 
định được số ngày tuổi của cá (Termvidchakorn 
và ctv., 2013) (Bảng 4).
IV. THẢO LUẬN
Qua kết quả quan trắc từ năm 2017-2019, 
nhận thấy rằng thành phần loài cá bột và cá con 
thuộc họ cá Tra (Pangasiidae) ở sông Tiền đa 
dạng và phong phú hơn sông Hậu (10 loài so 
với 7 loài). So với các kết quả nghiên cứu trước 
đây thành phần loài trong nghiên cứu này khá 
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Nguyễn 
Văn Thường và ctv., (2007) đã thu được 10 loài 
cá thuộc họ Pangasiidae ở lưu vực sông Tiền và 
sông Hậu, của Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn 
89TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bạch Loan (1999) đã mô tả được 14 loài thuộc 
họ cá Tra (Pangasiidae) ở Việt Nam. 
Theo số liệu quan trắc tại hai trạm trên sông 
Tiền và sông Hậu, sự biến động thành phần loài 
và mật độ cá bột và cá con có sự tương đồng với 
nhau. Sự biến động về thành phần loài và mật 
độ cá thể có xu hướng giảm dần vào thời điểm 
kết thúc thời gian quan trắc ở cả hai sông vào 
tháng 9 (cuối mùa lũ). Điều này có nghĩa rằng 
hầu hết các loài cá sinh sản chủ yếu vào đầu 
và giữa mùa lũ bởi vì đó cũng vào thời điểm 
đầu mùa mưa nên thuận lợi cho nhiều loài cá 
ở sông Mê Công sinh sản và di cư sinh sản. 
Thành phần loài cá bột và cá con có xu hướng 
giảm qua các năm, mực nước lũ hàng năm có 
thể ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động thành 
phần loài của chúng. 
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
Mức nước tại Stung Treng và Số lượng cá bột vào đầu 
tháng 6
Mức nước (mét)
Log(SL cá bột)
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
12
-J
un
13
-J
un
14
-J
un
15
-J
un
16
-J
un
17
-J
un
18
-J
un
19
-J
un
20
-J
un
21
-J
un
22
-J
un
23
-J
un
24
-J
un
25
-J
un
26
-J
un
27
-J
un
28
-J
un
29
-J
un
30
-J
un
01
-J
ul
Mức nước tại Stung Treng và Số lượng cá bột 
vào cuối tháng 6
Mức nước (mét)
Log(SL cá bột)
Hình 7. Mức nước tại Stung Treng và số lượng cá bột vào tháng 6 (Nguồn MRC, 2020).
Sự di cư sinh sản của các loài cá di cư thuộc 
họ cá Tra có liên quan mật thiết đến chế độ lũ 
của sông Mê Công. Vào cuối mùa khô cá di cư 
lên thượng nguồn tìm bãi đẻ, đến đầu mùa lũ khi 
mực nước bắt đầu dâng lên thì hàng loạt các loài 
cá tham gia sinh sản. Sự trôi dạt của trứng và ấu 
trùng cá từ các bãi đẻ theo dòng nước sông Mê 
Công đổ về hạ lưu với vận tốc nước trung bình 
0,19 (m/s) nếu thuận lợi không cản trở dòng 
chảy, đường di cư của cá sau thời gian 8 -10 
ngày thì cá giống và cá con xuất hiện ở các trạm 
đầu nguồn của sông Tiền và sông Hậu (Hình 7). 
Theo kết quả nghiên cứu trước đây của 
Nguyễn Thanh Tùng (2005), cho thấy vào mùa 
sinh sản hầu hết các loài cá đều tham gia sinh 
sản nhưng sự sinh sản này diễn ra không liên 
tục mà theo từng đợt, ít nhất là 3 -5 đỉnh điểm 
trong một mùa đẻ trứng. Trong nghiên cứu này, 
sự sinh sản của cá được thể hiện ở 3 đỉnh điểm 
khác nhau như vào đầu tháng 6, vào cuối tháng 
6 và đầu tháng 7 (Hình 7 và Hình 8).
0.00
1.00
2.00
3.00
4.00
5.00
6.00
7.00
Mức nước tại Stung Treng và Số lượng cá bột vào đầu
tháng 7
Mức nước (mét)
Log(SL cá bột)
Hình 8. Mức nước tại Stung Treng và số lượng cá bột vào tháng 7 và 8-9.
90 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Vào thời điểm tháng 8 mực nước tại thượng 
nguồn sông Mê Công bắt đầu giảm xuống, thể 
hiện kết thúc mùa lũ được bắt đầu. Vào thời điểm 
này số lượng cá thể cá bột và cá con cũng giảm 
dần theo cho đến khi kết thúc mùa lũ (Hình 8).
Mối liên hệ giữa mức nước và sự sinh sản 
của cá rất phụ thuộc, nếu một trong những tác 
động nào ảnh hưởng đến sự gia tăng mức nước 
theo quy luật tự nhiên sẽ làm mất đi sản lượng 
cá bổ sung vào nguồn lợi thủy sản tự nhiên của 
vùng nói chung và sản lượng thủy sản nói riêng 
ở vùng ĐBSCL. Do vậy, bất kỳ một công trình 
thủy điện hay thủy lợi nào được hình thành trên 
dòng chính sông Mê Công đều cần được nghiên 
cứu kỹ đánh giá tác động môi trường nhằm 
giảm thiểu tối đa sự ảnh hưởng đến nguồn lợi 
thủy sản tự nhiên của vùng hay của khu vực.
Hình 9. Mức nước tại trạm Kratie trong 3 năm 2017, 2018 và 2019 (Nguồn MRC, 2020).
Nguồn nước trên dòng chính Mê Công cung 
cấp cho ĐBSCL được xem xét tại trạm Kratie 
(Hoàng Minh Tuyển, 2016). Theo số liệu quan 
trắc đo đạc của MRC mức nước tại trạm Kratie 
trong 3 năm 2017, 2018 và 2019 cho thấy: mực 
nước cao vào cuối mùa vụ quan trắc cho thấy lũ 
những năm gần đây xuất hiện tương đối trễ gây 
ảnh hưởng đến sự sinh sản và trôi dạt của cá bột 
và cá con (Hình 9). 
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Tổng cộng 2.775 mẫu được thu với 64.994 
cá thể thuộc họ cá tra được đại diện cho 11 loài, 
trong đó 7 loài ở sông Hậu và 10 loài ở sông Tiền. 
Thành phần loài và mật độ cá thể có xu 
hướng giảm qua các năm và tập trung cao vào 
các tháng đầu mùa lũ giảm dần về cuối mùa vụ 
quan trắc.
Mức độ đa dạng loài thuộc họ cá Tra 
(Pangasiidae) ở mức thấp và trung bình, tại trạm 
sông Tiền có mức độ đa dạng loài cao hơn sông 
Hậu.
Sự thay đổi chế độ lũ trên thượng nguồn 
trong những năm gần đây đã làm ảnh hưởng đến 
các bãi đẻ của cá, thời gian sinh sản của cá và 
lượng cá được sinh sản.
5.2. Đề xuất
Tiếp tục nghiên cứu sự đa dạng và phong 
phú nguồn lợi cá bột và cá con trôi dạt từ thượng 
nguồn xuống vùng hạ lưu ĐBSCL.
Bổ sung quan trắc các chỉ tiêu chất lượng 
nước và chế độ lũ lên sự trôi dạt, đa dạng và 
phong phú của cá bột và cá con.
Hạn chế khai thác vào đầu mùa lũ để đảm 
bảo được nguồn lợi cá bột cá con được duy trì.
91TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Hoàng Minh Tuyển., 2016. Tình hình thủy văn hạ 
lưu sông Mê Công mùa khô năm 2015-2016, 
hinh-thuy-van-ha-luu-song-Me-Cong-mua-kho-
nam, ngày truy cập: 03/11/2020.
Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Bạch Loan, 1991. 
Phân loại họ cá Tra ở Việt Nam. Tuyển tập 
Nghiên cứu biển, Tập IX, trang 246-258. 
Nguyễn Nguyễn Du, Claire Smallwood, Nguyễn 
Văn Hảo, Nguyễn Văn Trinh, Nguyễn Trọng 
Tín., 2006. Bộ Sưu tập ngư cụ nội địa vùng Đồng 
bằng sông Cửu Long. 352 trang.
Nguyễn Thanh Tùng., 2005. Biến động thành phần 
loài và mật độ cá bột, cá con ở Vĩnh Xương và 
Quốc Thái, An Giang. Luận án Tiến sĩ. Viện Hải 
Dương Học. Nha Trang, Khánh Hòa. 186 trang.
Nguyễn Văn Thường và ctv., 2007. Khảo sát thành 
phần loài cá trơn họ pangasiidae ở Đồng bằng 
sông Cửu Long. Báo cáo khoa học. Đại học Cần 
Thơ. 12 trang.
Phạm Thược., 2007. Cơ sở khoa học của việc bảo 
tồn đa dạng sinh học vùng biển Tây Nam Bộ. 
Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội. 175 trang.
Tài liệu tiếng Anh
General Oceanic Inc., 1996. General Oceanic’s 
Digital Flow meter Mechanical and Electronic 
Operators Manual. Floria 33169 – 5887.
MRC., 2015. Annual Mekong Flood Report 2013, 
Mekong River Commission, 102 pages.
MRC., 2020. Mekong River Commission, http://
ffw.mrcmekong.org/index.php, ngày truy cập: 
10/07/2020
Termvidchakorn Apichart, 2003. Freshwater Fish 
Larvae. Inland Fisheries Resources Research 
and Development Institute, Inland Fisheries 
Research and Development Bureau Department 
of Fisheries. Thailand, 135 pages.
Termvidchakorn, A., and Hortle, K.G., 2013. A 
guide to larvae and juveniles of some common 
fish species from the Mekong River Basin. 
MRC Technical Paper No. 38. Mekong River 
Commission, Phnom Penh. 234pp. ISSN: 1683-
1489.
92 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
THE DIVERSITY AND ABUNDANCE OF LARVAE AND JUVENILE 
FISH OF PANGASIIDAE FAMILY AT UPSTREAM OF THE TIEN AND 
HAU RIVERS DURING THE PERIODS OF 2017 – 2019
Tran Thuy Vy1*, Nguyen Nguyen Du1, Dinh Trang Diem1 and Huynh Hoang Huy
1 
ABSTRACT
The Mekong River flows into Viet Nam throughout Tien and Hau rivers, larvae and juvenile fish 
drift downstream and then disperse into floodplains and canals to grow and develop; including 
the Pagasiidae family, which is of great significance to the economy of the Mekong Delta. Study 
of the diversity and abundance of larvae and juvenile in the upstream of Tien and Hau rivers near 
the Cambodian border were sampled daily from 1st June to 30th September during 2017 and 2019 
at low tide by using both Bongo nets (quantify) and Bag nets (qualitative) in Vinh Xuong site and 
Quoc Thai site. Samples were stored in plastic jars containing 5% formalin for later identification 
and analysis at Research Institute for Aquaculture No. 2, Ho Chi Minh City. A total of 2,772 samples 
were analyzed under-representing 64,994 individuals belonging to Pagasiidae with 11 species, of 
which 7 species are in Hau river and 10 species are in Tien river. The species composition of 
the Pangasidae was relatively stable over the years while the density and number of individuals 
decreased sharply. The trend of species composition and individual density decreases from the early 
of the flood season to the end of the flood season. Shannon – Weiner (H’) of Pangasiidae family is 
from low to medium level, the Tien river has more diverse species composition and population of 
individuals than the Hau river. The change in flood regime upstream in recent years has changed the 
spawning grounds of fish, the time of fish spawning and the amount of fish being spawned.
Keywords: Pagasiidae, density, fish larvae, species composition, variation.
Người phản biện: TS. Hà Phước Hùng
Ngày nhận bài: 05/8/2020
Ngày thông qua phản biện: 23/8/2020
Ngày duyệt đăng: 27/8/2020
Người phản biện: TS. Thái Ngọc Trí 
Ngày nhận bài: 09/8/2020
Ngày thông qua phản biện: 24/8/2020
Ngày duyệt đăng: 27/8/2020
1 Research Institute for Aquaculture No.II
* Email: tthuyvy670@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_da_dang_va_phong_phu_cua_ca_bot_va_ca_con_thuoc_ho_pa.pdf