Kết quả bước đầu nuôi cá chình bông (Anguilla marmorata) thương phẩm trong nhà bằng hệ thống tuần hoàn
TÓM TẮT
Mục đích của nghiên cứu này nhằm thử nghiệm áp dụng hệ thống tuần hoàn nuôi cá chình Bông
(Anguilla marmorata) thương phẩm ở trong nhà với quy mô nông hộ. Thí nghiệm được bố trí trong
3 hệ thống tuần hoàn có kích thước và các thành phần như nhau. Mật độ nuôi cá chình là 90 con/m3
và trọng lượng cá thả ban đầu là 97± 0,2g/con. Chất lượng nước, tỷ lệ thay nước và lượng thức ăn
được ghi nhận hàng ngày. Tốc độ tăng trưởng cá được đánh giá định kỳ theo hàng tháng.
Trong suốt quá trình nuôi sử dụng thức ăn viên công nghiệp với lượng thức ăn từ 1% trọng lượng
thân/ngày. Kết quả sau 90 ngày nuôi cho thấy chất lượng nước được duy trì ổn định và thích hợp
cho cá chình Bông phát triển trong điều kiện rất ít thay nước. Tốc độ tăng trưởng trung bình của cá
chình Bông là 1,1 g/con/ngày và tỷ lệ sống đạt trung bình 98%. Sau 3 tháng nuôi, trọng lượng cá
thể trong quần đàn rất biến động và chia thành 3 nhóm 100-150g, 151-170g và 171-380 g. Đặc biệt,
trong suốt quá trình nuôi cá không thấy xuất hiện bất cứ bệnh đặc trưng. Vì vậy, cá nuôi trong hệ
thống này không sử dụng kháng sinh và hóa chất.
Kết quả 3 tháng nuôi thử nghiệm cho thấy cá chình Bông có thể nuôi ở mật độ cao trong hệ thống
tuần hoàn ít thay nước để giảm thiểu không gian sử dụng đất và nước, giảm ô nhiễm và an toàn sinh
học. Việc đánh giá toàn bộ chu kỳ nuôi cá chình Bông thương phẩm trong hệ thống tuần hoàn sẽ
được nghiên cứu tiếp tục. Có thể khẳng định rằng đây là công nghệ phù hợp nuôi cá chình thương
phẩm trong nhà ở điều kiện thành phố Hồ Chí Minh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu nuôi cá chình bông (Anguilla marmorata) thương phẩm trong nhà bằng hệ thống tuần hoàn
RAS1, RAS2 và RAS3. Nitrite nitrogen giảm mạnh đầu chu kỳ nuôi nhưng có xu thế tĕng nhẹ dần ở cuối chu kỳ 90 ngày nuôi. Nồng độ nitrate nitrogen biến động lớn (30-100 mg/L) trong bể nuôi tuần hoàn trong chu kỳ nuôi. 3.2. Sử dụng nước và thức ĕn Hình 5. Lượng nước thay hàng ngày (bên trái) và thức ĕn (bên phải) trong hệ thống tuần hoàn nuôi cá chình Bông. Giá trị thể hiện trong hình là trung bình của 3 hệ thống RAS. Trục X thể hiện ngày nuôi bao gồm: ngày nuôi thứ 1-15 là chu kỳ nuôi cách ly; ngày nuôi thứ 16-27 là chu kỳ khởi động hệ thống; bw: trọng lượng thân của cá với giá trị trung bình. Kết quả ở Hình 5 cho thấy, lượng nước sử dụng trong giai đoạn nuôi tĕng trưởng ít hơn nhiều so với các giai đoạn nuôi cách ly và giai đoạn khởi động hệ thống vì hệ thống lọc sinh học hoạt động đã cải thiện chất lượng nước nên thay nước không đáng kể, dù cho lượng thức ĕn sử dụng tĕng dần. 98 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.3. Kết quả nuôi tĕng trưởng trong 90 ngày nuôi Bảng 3. Kết quả nuôi tĕng trưởng trong 90 ngày nuôi Hệ thống Thông số Đơn vị RAS1 RAS2 RAS3 TBRAS±SD Tổng thời gian nuôi ngày 90 90 90 90 ± 0,0 Số cá thả con/hệ thống 322 323 323 322,7 ± 0,5 Số lượng cá còn sống con/hệ thống 317 320 312 316,33 ± 3,3 Mật độ cá thả ban đầu con/m3 89,4 89,7 89,7 89,63 ± 0,1 Tổng khối lượng ban đầu kg/hệ thống 31,2 31,3 31,3 31,53 ± 0,1 Tổng khối lượng ngày nuôi 90 kg/hệ thống 59,0 63,0 59,0 60,32 ± 1,9 Trọng lượng trung bình ban đầu g/con 97,0 97,0 97,0 97 ± 0,0 Trọng lượng trung bình ngày nuôi 90 g/con 186,0 197,0 189,0 190,7 ± 4,6 Tổng khối lượng thức ĕn kg/hệ thống 63,5 65,4 65,0 64,6 ± 8,5 Hệ số chuyển đổi thức ĕn 2,3 2,1 2,4 2,3 ± 0,1 Tĕng trưởng g/con/ngày 1,0 1,1 1,0 1,1 ± 0,1 Tĕng trưởng đặc trưng %/bw thân/ ngày 0,7 0,8 0,8 0,8 ± 0,0 Tỷ lệ sống % 98,4 99,1 96,6 98,0 ± 1,3 RAS1: hệ thống RAS số 1; RAS2: hệ thống RAS số 2; RAS3: hệ thống RAS số 3; TBRAS: giá trị trung bình của 3 hệ thống RAS1, RAS2 và RAS3; SD: độ lệch chuẩn. bw: trọng lượng thân cá. Sau 90 ngày nuôi tĕng trưởng, tốc độ tĕng trưởng trung bình là 1,1 g/con/ngày, FCR = 2,3 và tỷ lệ sống đạt 96,6-99,1%. Tương đương với tỷ lệ chết của cá chình nuôi trung bình 0,7% / tháng nuôi. Tỷ lệ sống cộng gộp được tính bao gồm cá chết trong hệ thống nuôi và trốn thoát nhảy ra khỏi bể trong thời gian đầu thích nghi. IV. THẢO LUẬN Các chỉ tiêu về môi trường nước cho cá chình Bông sinh trưởng tối ưu ít được công bố một cách chi tiết ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Các chỉ tiêu cơ bản ảnh hưởng đến tĕng trưởng của cá chình Bông như TAN, NO 2 -N, pH, H 2 S, độ kiềm và ngoại trừ nhiệt độ trong nghiên cứu này được đánh giá thích hợp cho cá chình Bông phát triển (Chu Vĕn Công, 2005). Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp lên khả nĕng bắt mồi của cá được trình bày ở trên. Nhiệt độ trung bình của chu kỳ nuôi này được đánh giá là thấp vì thả cá giống vào tết âm lịch, nhiệt độ không khí khá thấp mà trong hệ thống bể không trang bị hệ thống nâng và ổn định nhiệt độ nước. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ ô nhiễm của nước như COD, BOD 5 , PO 4 -P và TP trong nước được đánh giá thấp hơn quy định xả thải của QCVN (5945-1995-B) và có thể tái sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Nhiệt độ nước biến động theo xu thế tĕng dần và đạt lý tưởng cho cá chình Bông sinh trưởng và phát triển. Trong giai đoạn 17 ngày đầu nhiệt độ nước ≤ 27oC được đánh giá là không thích hợp cho cá chình Bông. Sở dĩ nhiệt độ nước thấp là do nhiệt độ không khí lạnh đầu nĕm tác động trực tiếp. Tuy nhiên, nhiệt độ tĕng dần đạt ngưỡng thích hợp từ ngày nuôi thứ 19 99TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II do khí hậu ấm lên, nhiệt độ nước đạt ≥ 27oC. Nhiệt độ của nước khi chảy qua trickling filter giảm 1-3oC (Nhut và ctv., chờ tạp chí đĕng). Để cải thiện nâng cao nhiệt độ nước, hệ thống trickling filter được di dời ra khỏi nhà nuôi để tiếp xúc với nhiệt độ không khí cao đã mang lại kết quả đáng kể (≥ 28oC) cá tiêu thụ thức ĕn nhiều hơn. Hàm lượng oxy hòa tan tĕng dần ở giai đoạn đầu có thể do nguyên nhân tĕng cường vận tốc bơm, lượng thức ĕn thấp và trong thời gian này nhiệt độ thấp lượng oxy hòa tan cao. Từ ngày nuôi 11-23, lượng thức ĕn tĕng lên và nhiệt độ nước tĕng lên đáng kể với lưu tốc nước như nhau, oxy hòa tan trong bể nuôi có xu hướng ổn định. Sự tổng hợp các yếu tố nhiệt độ tĕng, lượng thức ĕn tĕng và sinh khối cá tĕng dẫn đến sự tiêu tốn oxy trong bể nuôi cao hơn, là nguyên nhân làm giảm nồng độ oxy hòa tan trong nước. Chính vì thế cuối chu kỳ hàm lượng oxy trong bể nuôi hướng giảm xuống. Tương tự như cá trê nuôi trong hệ thống tuần hoàn xảy ra cùng hiện tượng này (Bovendeur và ctv., 1987). Mặc dù lượng thức ĕn tĕng lên đáng kể trong giai đoạn tĕng trưởng có thể làm sản phẩm thải của cá chình Bông tĕng nhưng nồng độ TAN tiếp tục có xu hướng giảm và duy trì ở mức 0,3 mg/L. Sự chênh lệch giữa các hệ thống thí nghiệm không đáng kể, chứng tỏ hệ thống lọc sinh học hoạt động bền vững suốt thời gian nuôi. Hệ vi khuẩn thực hiện quá trình nitrate hóa hoạt động được đánh giá chưa đến mức tới hạn so với thiết kế. Khi TAN tĕng lên hệ vi khuẩn phát triển sinh khối tĕng theo mối tương quan dương. Nhìn vào các chỉ tiêu chất lượng nước khác tại Bảng 2, các giá trị vẫn nằm trong ngưỡng hoạt động tối ưu của hệ vi sinh nitrate hóa. Sinh khối của chúng sẽ còn tiềm nĕng phát triển để khử TAN sinh ra khi cá đạt sinh khối 200 kg/bể (tương đương với 6 kg thức ĕn tiêu thụ hàng ngày). Trong điều kiện cá đói được giữ trong bể nuôi, TAN từ sản phẩm bài tiết của cá tích lũy 5,5 mg/L (bể nuôi 3,6m3) trong 24h, ước tính khoảng 0,8g TAN tích lũy / kg cá/ngày nuôi . Đây là thông số rất quan trọng trong việc thiết kế và tính toán hệ thống lọc sinh học hay thay nước ở điều kiện nuôi. Nhìn chung hàm lượng NO 2 -N biến động theo hướng giảm dần theo thời gian và ổn định từ ngày thứ 15 đến cuối chu kỳ (NO 2 -N = 0,2 mg/L). Sự tích lũy bất thường ở ngày nuôi thứ 9 đến ngày nuôi 14 có nồng độ cao nhiều lần so với các ngày nuôi khác. Nồng độ cao bất thường này chưa được hiểu nguyên nhân. Số liệu ghi nhận cho thấy, các thời điểm này là thời điểm tĕng lượng thức ĕn đột ngột, thức ĕn dư thừa làm ô nhiễm nước và sinh khối vi khuẩn Nitrobacter sp chưa phát triển đủ để khử NO 2 -N trong khi đó Nitrosomonas sp. hoạt động mạnh mẽ. Bằng chứng cho thấy hàm lượng TAN vẫn duy trì ở giá trị thấp. Tuy vậy, nồng độ NO 2 -N được xem là cao nhưng không ảnh hưởng đến sức khỏe cá chình trong điều kiện sử dụng NaCl giảm tính độc của NO 2 -N. NaCl cung cấp Cl- làm tĕng khả nĕng trao đổi NO 2 -N thông qua tế bào chloride cell ở mang cá chuyển tải NO 2 -N trong máu ra môi trường nước. Trong thực tiễn, các trang trại nuôi cá chình ở Hà Lan thường sử dụng NaCl để giảm tính độc của NO 2 -N, thật sự đây là giải pháp hiệu quả. Kết quả ở Hình 4 cho thấy nồng độ NO 3 -N trong bể nuôi có xu thế tĕng dần. Từ ngày nuôi thứ 3 đến ngày 17, xu thế tĕng theo hàm số NO 3 -N (mg/L) = 3,3 * ngày nuôi + 35,16 trong điều kiện không thay nước. Tuy nhiên, thay nước 100 -200 L nước /ngày đã duy trì NO 3 -N ≤ 100 mg/L (khoảng 80 mg/L) và sau ngày nuôi 33 nồng độ NO 3 -N tiếp tục giảm với cùng chế độ thay nước. Sở dĩ có sự thay đổi xu thế giảm là do tác động chính bởi thay nước khống chế nồng độ NO 3 -N và một phần nhỏ quá trình phản nitrate (denitrification process) thụ động xảy ra trong quá trình nuôi; quá trình này khử khoảng 19-21% N trong hệ thống đã được báo cáo (Bovendeur và ctv., 1987; van Rijin và ctv., 2006). NO 3 -N được xem ít độc đến các loài cá nuôi nói chung ở mức ≤ 300 mg/L và thậm chí có vài trường hợp 1000 mg/L (Timmons và Ebeling, 2010). Tuy vậy, sự nghiên cứu tác động của NO 3 -N lên tĕng trưởng cá chình Bông 100 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II chưa được nghiên cứu và báo cáo chi tiết. Trong nghiên cứu này chúng tôi thận trọng tham khảo nồng độ NO 3 -N duy trì được đề nghị cho cá trê nuôi thương phẩm (Schram và ctv., 2014) áp dụng cho cá chình ≤ 100 mg/L để bảo đảm sự thành công của công nghệ và các bước tiếp theo cải tiến kỹ thuật và xác định chính xác sự ảnh hưởng NO 3 -N lên tĕng trưởng cá chình Bông. Tỷ lệ thay nước được thể hiện chi tiết ở Hình 5, lượng nước thay ở giai đoạn xử lý mầm bệnh từ 50-100%/ ngày, tỷ lệ thay nước giảm xuống khi kết nối khởi động hệ thống lọc sinh học từ 20 -45%/ ngày. Tỷ lệ thay nước giảm xuống rất thấp 0- 5% ở giai đoạn nuôi tĕng trưởng từ ngày nuôi 37-59, chủ yếu là bù thêm nước cho quá trình xả bùn thải và bù vào lượng nước bốc hơi. Từ đó, cho thấy rằng hệ thống tuần hoàn rất hạn chế thay nước. Với tỷ lệ thay nước trong thí nghiệm này thấp hơn so với báo cáo của các tác giả khác rằng thông thường hệ thống RAS thay nước từ 10 -15%/ngày (Timmons và Ebeling, 2010). Tổng khối lượng nước sử dụng được tính là 1,33 m3/kg cá được đánh giá chấp nhận được ở giai đoạn đầu nuôi cá chình. Khẩu phần lượng thức ĕn cho ĕn được tính khoảng 1% trọng lượng thân nằm trong khoảng khuyến cáo của nhà sản xuất thức ĕn. Trong khi đó, các báo cáo khác cho thấy cá chình nên cho ĕn 3-5% trọng lượng thân nuôi ao hay lồng bè. Có thể khẳng định rằng nuôi trong lồng bè và nuôi ao không kiểm tra thức ĕn một cách hoàn toàn chính xác và không thể xác định lượng thức ĕn dư vì cá kéo thức ĕn ra khỏi sàng, dòng nước sẽ cuốn trôi. Theo quan sát của chúng tôi cá chình có đặc tính ĕn theo từng đàn, cắn xé thức ĕn và không ĕn mãnh vụn nhỏ, đây là đặc điểm ảnh hưởng đến tiêu phí thức ĕn. Chính vì thế tại Châu Âu trang trại cá chình thường sử dụng thức ĕn dạng viên bán nổi để nuôi nĕng suất cao, FCR thấp (1,2) và dễ kiểm soát so với thức ĕn bột dính như Việt Nam và Trung Quốc. Qua đó, có thể khẳng định rằng trọng lượng thân cá chình từ 110 – 210 g có thể ĕn 1-3% trọng lượng thân/ ngày như nhà sản xuất thức ĕn là hợp lý với kết quả nghiên cứu này. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Chất lượng nước trong bể nuôi hệ thống tuần hoàn bảo đảm cho sự sinh trưởng và phát triển của cá chình Bông nuôi thương phẩm. Yếu tố nhiệt độ rất quan trọng cho nuôi cá chình Bông liên quan đến tiêu hóa và bắt mồi: ≤ 26oC tiêu thụ thức ĕn kém, từ 27-28oC tiêu thụ thức ĕn tốt. Hệ thống nuôi tuần hoàn thay nước từ 0 – 32,8%/ ngày, trung bình 4,9%/ngày vẫn duy trì được chất lượng nước tối ưu cho cá chình sinh trưởng và phát triển. Cá chình Bông nuôi trong hệ thống tuần hoàn được cho ĕn 4 lần/ngày bằng thức ĕn viên công nghiệp với tỷ lệ 1% trọng lượng thân/ngày ở trọng lượng 97-210 g/con. Tốc độ tĕng trưởng đạt tốc độ tĕng trưởng trung bình 1,1g/con/ngày, FCR = 2,3 và tỷ lệ sống đạt 96,6 - 99,1% và bệnh không xuất hiện trong quá trình nuôi. Để hoàn toàn không thay nước và hạn chế thải một lượng chất thải rắn đáng kể trong quá trình nuôi cá chình Bông trong hệ thống RAS, hệ thống khử nitrate xử lý chất thải rắn (nguồn carbon hữu cơ nội tại) được đề nghị kết hợp với hệ thống lọc sinh học hiếu khí. 101TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Chu Vĕn Công, 2005. Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật nuôi thương phẩm cá Chình tại miền Trung Việt Nam. Báo cáo khoa học nĕm 2005, viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, 65 trang. Tài liệu tiếng Anh APHA, 1999. Standard methods for the examination of water and waste water, 20th edition. American public health association, American water works association, water pollution control federation, Washington DC. Bovendeur, J., Eding, E.H., Henken, A.M., 1987. Design and performance of a water recirculation system for high-density culture of the African catfish, Clarias gariepinus (Burchell 1822). Aquaculture 63, 329-353. Nhut, N., Quan, N.H., Hao, N.V., Verreth, J.A.V., Eding, E.H., Verdegem, M.C.J., Submitted. Nutrient mass balances, water quality and water use of striped catfish ( Pangasianonodon hypophthalmus, Sauvage, 1878) in flow- through and recirculation systems. Aquaculture Engineering. Schram, E., Roques, J.A.C., Abbink, W., Yokohama, Y., Spanings, T., de Vries, P., Bierman, S., van de Vis, H., Flik, G., 2014. The impact of elevated water nitrate concentration on physiology, growth and feed intake of African catfish Clarias gariepinus (Burchell 1822). Aquaculture Research 45, 1499-1511. Timmons, M.B., Ebeling, J.M., 2010. Recirculating aquaculture NRAC Publication No. 401-2010, 948 p. van Rijn, J., Tal, Y., Schreier, H.J., 2006. Denitrification in recirculating systems: Theory and applications. Aquacultural Engineering 34, 364-376. 102 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II PRELIMINARY RESULTS OF APPLICATION OF INDOOR RECIRCULATING AQUACULTURE SYSTEM FOR MARBLED EEL (Anguilla marmorata) CULTURE Nguyen Nhut1*, Nguyen Hong Quan1, Dinh Hung1 ABSTRACT The aim of this study is to apply recirculating aquaculture system (RAS) for indoor grow-out of marbled eel (Anguilla marmorata) at household scale. Three RASs with same dimension, compo- nents and functions were set up for experiment and stocked with the eel juveniles of 97g ± 0,2 ind-1 in average weight and at a density of 90 ind m-3. Water quality, water exchange and feeding level were recorded daily but fish growth rate and mortality were determined monthly. The feeding level was accounted for 1% body weight day-1during culture period. The 90-day culture period showed that water quality was stable and acceptable for fish growth, although amount of wa- ter exchange was low. Individual growth was 1,1g per day and survival rate was about 98%. After three months of culture, the individual body weight of fish was found to be differentiated in three groups: 100-150g, 151-170g and 171-380g per fish. Particularly, fish disease was not recognized during culture. Thus, fish culture in RAS did not indicate any antibiotics and chemicals. The Marbled eel culture with a high density in RAS results in reduction of room, land and pollution but enhancement of biosecurity. A full production cycle for the Marbled eel culture in the RAS should be further researched. The results of the experiment indicate that the indoor RAS technology can be adapted for eel culture in Hochiminh City. Keywords: Marbled eel, RAS, biosecurity, water quality. Người phản biện: TS. Nguyễn Phúc Cẩm Tú Ngày nhận bài: 27/7/2016 Ngày thông qua phản biện: 03/8/2016 Ngày duyệt đĕng: 05/9/2016 1 Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No.2. * Email: nhut300676@yahoo.com
File đính kèm:
- ket_qua_buoc_dau_nuoi_ca_chinh_bong_anguilla_marmorata_thuon.pdf