Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

TÓM TẮT

Mục tiêu của nghiên cứu này đánh giá hiện trạng phát ra chất thải rắn và lỏng của ao nuôi cá tra thâm

canh trong các trang trại ở ĐBSCL nhằm định hướng cho các mô hình nuôi ít ô nhiễm. Sử dụng

phương pháp điều tra trên 30 trang trại ở các tỉnh nuôi cá tập trung như Tiền Giang, Cần Thơ, Bến

Tre, An Giang, Đồng Tháp và Vĩnh Long. Số liệu về chất thải rắn, lỏng được phỏng vấn trực tiếp

người nuôi và nhật ký nuôi qua các vụ kết hợp với số liệu nghiên cứu được sử dụng tính toán, ước

tính trong nghiên cứu này. Qua kết quả điều tra 30 trang trại nuôi cá tra thâm canh cho thấy năng

suất trung bình 422 tấn/ha/vụ với thời gian nuôi trung bình 293 ngày/chu kỳ, trọng lượng trung bình

thu hoạch 952 g/cá thể. Trung bình sản xuất 1kg cá cần lượng nước 7,4 m3 và sinh ra 19,7 L bùn.

Ước tính cân bằng dinh dưỡng của ao đầu vào với dạng vật chất rắn (DM) chiếm 54,7% từ thức

ăn và nước sông chiếm 44,9%. Chất thải ni-tơ ước tính đầu vào nước sông 26% và thức ăn 73,2%.

Tương tự như tỷ lệ phosphorus chiếm cao nhất từ nguồn thức ăn 10,2% và từ nguồn nước vào 3,4%.

COD từ nước sông 3,6% và thức ăn chiếm đa số 96%. Đầu ra của quỹ DM chứa trong cá 9,4%, nước

thải từ ao cá tra 17,3%, trong bùn xả 4,93 % và phân hũy do vi sinh vật và yếu tố khác 68,3%. Cá

thương phẩm hấp thụ Nitrogen 33,6%, thải ra môi trường nước 38,5%, bùn chiếm 1,17% và vi sinh

vật hấp thụ khoảng 26,7%. Phosphorus chiếm 30,9% trong cá, nước thải 30,5%, trong bùn 1,85%

và hấp thụ phần lớn trong vi sinh vật 36,7%. Kết quả này có thể định hướng cho các mô hình nuôi

giảm thiểu ô nhiễm.

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 9220
Bạn đang xem tài liệu "Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

Ước tính phát thải của ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long
). Chắc chắn rằng cá thải ra môi trường 
lượng COD cao bởi Cac-bon hữu cơ cao trong 
thành phần thức ăn không được hấp thu xây 
dựng cơ thể cá nuôi.
4.3. Hiệu quả sử dụng nước
Kết quả sử dụng nước trong nghiên cứu này 
(bảng 2) cao hơn so sánh với kết quả nghiên cứu 
của Phan Thanh Lam và ctv (2009) và Bosma 
và ctv (2008), tính trên 1kg cá thương phẩm 
cao hơn 1,64-3 lần tương ứng. So với nuôi loài 
cá khác, lượng nước sử dụng cao hơn nuôi tôm 
biển gấp 3,7 lần (tôm sú sử dụng 2000m3/kg) 
và thấp hơn với cá hồi nước ngọt nuôi trong ao 
nước chảy ở Đan Mạch 1,5 lần (11.000 m3/1kg). 
Theo ước tính của chúng tôi mỗi ha cá tra nuôi 
thương phẩm tiêu tốn khoảng 3.122.800 m3/ha/
vụ kết quả này cao hơn rất nhiều so với nghiên 
cứu của Bosma và cộng sự (2008). Nếu như tổng 
diện tích nuôi cả ĐBSCL là 5.442 ha có nghĩa 
tổng số lượng nước tiêu thụ khoảng 17 x 109 
m3, tương đương với 0,15% tổng số lượng nước 
sông Mekong chảy qua địa phận Việt Nam. Từ 
kết quả này có thể khẳng định rằng công nghệ 
nuôi cá tra hiện nay sử dụng lượng nước khá lớn 
( > 3 triệu m3 nước/ha/vụ). Tất cả chất thải sinh 
ra không được xử lý được thải ra sông là mối 
nguy cho ô nhiễm môi trường.
4.4. Số lượng bùn sinh ra
Hệ số thức ăn cao và thức ăn protein thấp 
cùng với sinh khối cá nuôi tính trên đơn vị 
diện tích cá tra nuôi thương phẩm sinh ra một 
lượng bùn lớn, ước tính trong nghiên cứu này 
là 19,7 lít bùn/kg cá sản xuất hay cả vụ lượng 
bùn tồn tại trong đáy ao 8.333 m3, ước tính tổng 
số lượng bùn sinh ra từ 5.442 ha/vụ lượng bùn 
thải ra sông một con số lớn (45,3 x 106 m3). Khi 
so sánh tỷ lệ bùn/kg cá của ao nuôi cá tra cao 
hơn cá trê nuôi trong hệ thống tuần hoàn lọc 
sinh học và protein 49% (7l/kg) (Nguyễn Nhứt 
và ctv, 2011). Sự khác biệt này có thể do hàm 
lượng phù sa từ nước sông và sử dụng thức ăn 
có protein thấp hơn tạo ra sự khác biệt trong 
nghiên cứu. Khi đối chiếu kết quả của Anh và 
ctv (2010) (21,5 lít bùn/kg thức ăn và 33,3 lít 
bùn/kg cá) điều tra trên ao nuôi cá tra thì kết quả 
nghiên cứu này thấp hơn. Với tổng số lượng bùn 
sinh ra khá lớn, thế nhưng hầu hết các ao nuôi cá 
tra thương phẩm hiện nay không có hệ thống ao 
lắng, hay ao xử lý trước khi thải ra sông. Đây là 
một vấn đề tác động ngược lên môi trường xung 
quanh đáng kể về chất lượng nước sông, cũng 
như lắng tụ kênh rạch gây hiện tượng bồi đắp do 
hàm lượng DM.
26 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
4.5. Ước tính cân bằng chất thải trong 
ao nuôi cá tra thương phẩm
Vật chất rắn DM:
Kết quả phân tích ước lượng cho thất DM 
đầu vào chủ yếu từ nguồn thức ăn (54,7%) và 
nước sông mang vào phù sa lắng động (44,9%). 
Lượng TSS trong nước sông khoảng (186 mg/
lít) khá cao trong khi ao cá tra thay nước liên 
tục từ 30 – 100 % thể tích /ngày (Phan Thanh 
Lâm và ctv, 2009). Sự tích tụ phân cá trong ao 
hạn chế do phân thải dạng lỏng, vận tốc lắng 
khá thấp (0,05cm/giây) so với cá rô phi 1,7 cm/
giây (Timmons và ctv, 2002). Theo tính toán 
của chúng tôi khoảng 2,35 tấn DM/1 tấn cá sản 
xuất bao gồm thải ra sông, siphone bùn và vi 
sinh vật hấp thụ. Trong đó khoảng 22,2% thải 
trực tiếp ra sông. Thành phần của DM của bùn 
cá tra được phân tích cho thấy khoảng 60% vật 
chất hữu cơ là nguồn dinh dưỡng cho vi sinh 
vật tham gia quá trình phản nitrate và tiêu hủy 
nguồn Carbon trong đáy ao với điều kiện thiếu 
khí. Chính vì thế 68,3% DM được tự phân hủy 
theo tính toán của chúng tôi trong nghiên cứu 
này. Đối với cá tra nguồn gây ô nhiễm dưới 
dạng DM được xem ít quan trọng hơn vì khả 
năng chịu TSS trong nước khá cao (168 mg/l) 
đối với cá tra nhưng tác động đến môi trường 
xung quanh và điều kiện sinh ra các nguồn khí 
trung gian khác khi điều kiện thiếu khí (Eding 
và ctv, 2006).
Cân bằng nitrogen trong ao cá
Qua kết quả tính toán hình 2 cho thấy 
thức ăn là nguồn cung cấp chính yếu nitrogen 
đầu vào trong ao chiếm đa số 73,2%. Kết quả 
này tương đồng với nghiên cứu về cân bằng 
nitrogen trong ao cá da trơn Mỹ của (Gross và 
ctv, 2000). Tỷ lệ nitrogen đầu vào từ nguồn 
nước thay cao hơn so với các nghiên cứu của 
Gross và ctv (2000) với lý do rằng ao nuôi cá 
tra thương phẩm thay nước một số lượng lớn 
hơn rất nhiều so với các nghiên cứu trên đối 
tượng khác nên tổng phần nitrogen góp vào quỹ 
ban đầu lớn. Cá tra hấp thụ khoảng 33,6% tổng 
nguồn nitrogen đầu vào tương đồng với kết quả 
của De Silva và ctv (2010) và trung bình ước 
tính thải ra môi trường 0,03 tấn nitrogen/tấn 
cá sản xuất thông qua con đường siphone bùn 
đáy và thay nước. Phần nitrogen mất đi 26,7% 
có thể do quá trình khử của vi sinh vật diễn 
ra trong ao cá với hai điều kiện yếm khí nền 
đáy và hiếu khí tầng mặt. Theo ước tính tổng 
số lượng nitrogen thải ra môi trường là 25.050 
tấn Nitrogen của tổng diện tích 5.442 ha tương 
ứng 835.000 tấn cá tra sản xuất (năm 2008) 
(Phan Thanh Lâm và ctv, 2009). Nếu quy đổi 
dưới dạng phân Ure (46% N) sử dụng bón cho 
lúa là tương đương 54.456 tấn Ure. Con số này 
có ý nghĩa rất quan trọng khi lượng chất thải 
cá tra bị hoang phí không sử dụng và làm ảnh 
hưởng đến môi trường.
Cân bằng phosphorus trong ao cá
Kết quả hình 3 thể hiện phosphorus có 
nguồn gốc chủ yếu từ nguồn thức ăn 65,9%. 
Trong thực tế cho thấy thành phần thức ăn của 
cá tra phosphorus chiếm từ 1-1,5%. Lượng 
phosphorus được bổ sung ở đầu vào đáng kể 
từ nguồn nước sông chứa khoáng phù sa mang 
phosphorus là 33,5%. Lượng phosphorus tăng 
dần khi tỷ lệ thuận với lượng nước thay cao 
trong ao nuôi cá tra. Trong khi đó, cá chỉ hấp 
thụ 30,9% phosphorus đầu vào kết quả này phù 
hợp với ước tính của De Silva và ctv (2010), 
các phần khác được thải ra sông hay lắng động 
dưới nền đáy ao. Kết quả cũng chứng minh 
thay nước liên tục cùng với đặc điểm cá tra bơi 
lội xáo trộn nước làm lượng phosphorus theo 
nước thải ra ngoài đáng kể chiếm 30,5% và tỷ 
lệ trong bùn thấp. Thông thường phosphorus 
thường lắng đọng trong nền đáy cao cùng điều 
kiện yếm khí và yếm khí hoàn toàn (Nguyễn 
Nhứt và ctv, 2011) sự trái ngược này có thể lý 
do nước trong ao luôn xáo trộn và lượng nước 
thay liên tục phosphorus hạn chế lắng và hòa 
tan ra ngoài. Một phần phosphorus chiếm 
36,7% không tính toán được trong nghiên cứu 
này có thể do vi sinh vật hấp thụ như vi tảo và 
vi khuẩn trong cột nước ao nuôi diễn ra được 
27TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
chứng minh bởi Gross và ctv (1998). Tương tự 
như nitrogen, lượng phosphorus thải ra trong 
5.442 ha với năng suất 442 tấn/ha/vụ tương 
đương với 18.013 tấn/ha/vụ. Nếu tính cả năm 
thì tương đương với 27.019 tấn phosphorus/
năm tương đương với phân DAP (46% P
2
O5) là 
135.095 lãng phí và gây ô nhiễm môi trường. 
Từ các số liệu này có thể định hướng nếu cả 
ĐBSCL đạt năng suất trung bình như các trang 
trại điều tra 422 tấn/ha hay thâm canh hóa cao 
hơn mà không có phương pháp nuôi thích hợp 
thì một lượng thải dưới dạng phosphorus thải ra 
rất lớn, vấn đề phát triển phú dưỡng cục bộ và 
phát triển tảo độc gây tác hại vô cùng lớn cho cá 
tự nhiên và đời sống con người ven sông.
Ước tính cân bằng COD trong ao nuôi
Tại hình 4 kết quả thể hiện ô nhiễm quy 
đổi COD để đánh giá khả năng ô nhiễm của 
ao cá tra thương phẩm. Nguồn COD đầu vào 
chiếm đa phần là do nguồn thức ăn sinh ra 96%. 
Thành phần thức ăn chứa nitrogen, tinh bột và 
chất béo là nguồn gốc tạo ra COD. Hệ số thức 
ăn trong ao cá tra được đánh giá là cao (1,6 
-1,64) thể hiện khả năng tiêu hóa và hấp thụ 
thấp của loại thức ăn này. Lượng thải này cần 
một số lượng oxy tiêu thụ để phân giải chúng. 
Trong nghiên cứu này cho thấy cá hấp thu COD 
quy đổi khá thấp chiếm 15,2%. Đầu ra thải quy 
đổi ra lượng COD chủ yếu do vi sinh vật phân 
hủy chiếm 68,4% điều này hoàn toàn hợp lý 
trong ao nuôi cá tra vì thức ăn chiếm thành 
phần protein thấp và tinh bột cao, chất thải dễ 
dàng tiêu hóa bởi vi sinh vật trong điều kiện 
yếm khí hoàn toàn hay không hoàn toàn phù 
hợp với ao sâu. Sự thay nước thải hàng ngày 
mang ra vật chất kèm theo tương đương với 
hàm lượng COD thải ra sông là 13,9%. Theo 
ước tính của nghiên cứu này để sản xuất 1 tấn 
cá thì thải ra môi trường tương đương 0,23 
tấn COD đồng nghĩa tương đương cần lượng 
oxy tiêu tốn. Nếu tính lượng COD thải ra sông 
của 835.000 tấn cá tra sản xuất (năm 2008) 
(Phan Thanh Lâm và ctv 2009) tương đương 
với 192.050 tấn COD. Trong khi đó ao nuôi 
cá tra sâu và không có hệ thống cung cấp oxy 
mà chỉ dựa vào thay nước hàm lượng oxy của 
nước sông khoảng 5 mg/L. Giả sử ao nuôi thay 
nước 100%/ngày thì lượng oxy cung cấp cho 
ao tương đương 150kg oxy bằng con đường 
nước sông. Điều này không đủ để phân hủy 
các chất thải dưới dạng hiếu khí, mà cần dưới 
dạng thiếu khí thực hiện quá trình phản nitrate 
lấy nguồn oxy trong phân tử NO3-N (Nguyễn 
Nhứt và ctv, 2009). Chính vì vậy đây có thể là 
con đường làm giảm chất ô nhiễm 68,4% dưới 
dạng ô nhiễm COD.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Chất thải
Hiệu suất sử dụng nước trong ao nuôi cá tra 
thương phẩm 7400 lít/kg và 4600 lít/kg thức ăn. 
Ước tính ao nuôi có diện tích 1 ha/vụ với năng 
suất nuôi 422 tấn/vụ, thải ra môi trường nước 
COD (99,06 tấn/ha/vụ và bùn 8.333m3/ha/vụ ), 
Nitrogen (12,87 tấn/ha/vụ từ nước và bùn thải) 
và phosphorus (3,1 tấn/ha/vụ từ nước và bùn 
thải). Lượng bùn sinh ra 19,7 lít/ kg cá thương 
phẩm và 12,3 lít/thức ăn sử dụng. 
5.2. Đề xuất các mô hình nuôi cá tra 
giảm thiểu ô nhiễn môi trường
Trên cơ sở dữ liệu phân tích, chúng tôi có 
thể đề xuất định hướng nghiên cứu và ứng dụng 
các mô hình tuần hoàn như sau để cải thiện chất 
lượng nước ao nuôi cá tra:+) Mô hình 1: Ao 
cá tra truyền thống kết hợp với ao lắng xử lý: 
hệ thống bao gồm ao nuôi, hệ thống ao lắng 
bùn làm phân compost và ao lắng nước; +) Mô 
hình 2: Ao cá tra truyền thống kết hợp ao lắng 
+ wetland: hệ thống gồm ao nuôi, ao lắng và 
wetland. +) Mô hình 3: RAS + xử lý hiếu khí 
bao gồm ao nuôi, hệ thống lọc hiếu khí và hệ 
thống tách thải. 
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn Ks. Ep Eding và 
TS. Marc Vedergem giúp đỡ phương pháp tính 
toán và cảm ơn Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển 
Nông Thôn đã tài trợ chương trình nghiên cứu.
28 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anh P.T., 2010. Mitigating water pollution in 
Vietnamese aquaculture production and 
processing industry the case of pangasius and 
shrimp, PhD Thesis, 35-40.
Trần Quốc Bảo, Thới Ngọc Bảo, Trương Thanh Tuấn, 
Đỗ Quang Tiền Vương, 2009. Báo cáo nhiệm vụ 
quan trắc chất lượng nước ở ĐBSCL, Viện Nghiên 
cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. 
Bosma, C. T. T. H., José Potting, 2009. Environmental 
Impact Assessment of the pangasius sector in the 
Mekong Delta. Science report. 1-38.
De Silva, Brett A. Ingram, Phuong T. Nguyen,Tam 
M. Bui, Geoff J. Gooley, Giovanni M. Turchini, 
2010. Estimation of Nitrogen and Phosphorus in 
Effluent from the Striped Catfish Farming Sector 
in the Mekong Delta, Vietnam, AMBIO. 39, 504–
514
Eding, E.H., Kamstra, A., Verreth, J.A.J., Huisman, 
E.A., Klapwijk, A., 2006. Design and operation 
of nitrifying trickling filters in recirculating 
aquaculture: a review, Aquac. Eng. 34, 234–260.
Glencross, B., Hien, T.T.T., Phuong, N.T., and T.L. 
Tu., 2010. A factorial approach to defining the 
energy and protein requirements of Tra catfish, 
Pangasianodon hypothalamus , Aquaculture 
Nutrition, 17 (2), 396-405. 
Gross, C. Boyd, C.W. Wood, 2000. Nitrogen transfor-
mations and balance in channel catfish ponds, Aq-
uacultural Engineering 24, 1–14.
Gross.A, Boyd.C, Lovell and Eya, 1998. Phospho-
rus Budgets for Channel Catfish Ponds Receiving 
Diets with Different Phosphorus Concentrations. 
Journal of the World Aquaculture society, Vol 29, 
No1.
Lam T. Phan , T. M. B., Thuy T.T. Nguyen , Geoff 
J. Gooley , Brett A. Ingramd, Hao V. Nguyen 
,Phuong T. Nguyen, Sena S. De Silva, 2009. 
Current status of farming practices of striped 
catfish, Pangasianodon hypophthalmus in the 
Mekong Delta, Vietnam, Aquaculture 296, 227–
236.
Nguyễn Văn Hảo, Ngô Xuân Tuyến, Đỗ Quang Tiền 
Vương, Trình Trung Phi, 2001. Những vấn đề nuôi 
tôm sú công nghiệp, Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
Nguyễn Nhứt, M. Vedergem, E. Eding, J.Verreth, 2011. 
Thiết kế và vận hành hệ thống nuôi cá tuần hoàn 
“không thay nước” kết hợp với thiết bị lọc bùn 
yếm khí. Mekong, 1859-1159; 229 -241
Timons.M, J.Ebeling, Wheaton. F.W, Summerfel. 
S.T, Vinci.B.J (2002) .Recirculating Aquaculture 
System ISBN 0-9712646-1-9
Verdegem, M. C. J., R. Bosma and J. A. J. Ver-
reth., (2006), Reducing water use for animal 
production through aquaculture, Water Resources 
Development 22(1), 101-113. 
ESTIMATION OF WASTE BALANCE IN TRADITIONAL STRIPE CATFISH 
(Pangasianodon hypophthalmus) POND 
Nguyen Nhut1, Le Ngoc Hanh1, Nguyen Van Hao2
ABSTRACT
The aim of this study evaluates the solid and liquid waste production of pangasius farms in Mekong 
Delta to strategy for building pangasius culture models with less pollution. Investigation method 
was applied on 30 pangasius farms in central area for pangasius culture as Tiengiang, Cantho, 
Bentre, Angiang, ĐongThap and Vinh Long provice. The data was collected by interview and log-
book from culturists. The result showed that average of yield reached 422 Mt/ha/crop. Average of 
body weight was 952 g/ind at 293 days of culture. The water consumption for 1kg of fish produced 
estimated 7.4 m3 and produced 19.7 L of sludge production. Input of waste balance for dry matter 
calculated 54,7% from feed and water inlet was 44.9%. Estimation of nitrogen was 26% and feed 
29TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
1 Department of Experimental Biology, Research Institute For Aquaculture No2. 
Email: nhut300676@yahoo.com 
2 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 2
(73.2%). The highest percentage of phosphorus was 10.2% from feed and second higher was water 
inlet (3.4%) .More than 96% of COD was from feed and 3.6% water inlet. Output of DM budget 
was calculated in tradional pangasius pond was retained in fish (9.4%), water inlet (17.3%), sludge 
removal (4.93 %) and natural decomposition by microorganism was 68.3%. Nitrogen retained in 
fish about 33.6%, water discharged (38.5%), sludge removal (1.17%) and 26.7% micro-organism 
consumtion. Phosphorus retained 30.9% in fish body, water discharge (30.5%), sludge removal 
(1.85%) and 36.7% by micro-organism consumtion. This result can be strategy for developing 
models of pangasius culture with less pollution.
Key words: Pangasius, waste, budget, nitrogen, phosphorus 
Người phản biện: ThS. Lưu Đức Điền 
 Ngày nhận bài: 6/6/2013 
 Ngày thông qua phản biện: 20/6/2013 
Ngày duyệt đăng: 8/7/2013

File đính kèm:

  • pdfuoc_tinh_phat_thai_cua_ao_nuoi_ca_tra_pangasianodon_hypophth.pdf