Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

TÓM TẮT

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là nhằm đo lường các chỉ số giảm phát thải khí nhà kính (GHGs)

trong nuôi tôm thâm canh thông qua việc thực hiện mô hình trình diễn với các giải pháp cải tiến về

kỹ thuật và quản lý trong quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng (TCT) tại Đồng bằng sông Cửu Long.

TCT được thả trong ao đất với mật độ là 80-90 con/m2 ở hai nhóm nghiệm thức thí nghiệm. Thời

gian nuôi trung bình kéo dài khoảng 2 đến 3 tháng. Phương pháp đánh giá vòng đời (LCA) và phần

mềm chuyên dụng CMLCA được hỗ trợ để phân tích và đánh giá tác động môi trường từ hoạt động

sản xuất. Các loại tác động môi trường bao gồm nóng lên toàn cầu (GW), chua hóa (Acd) và phú

dưỡng hóa (Eut) được phân tích và tính toán. Kết quả phân tích LCA cho thấy, để sản xuất 1 tấn tôm

thương phẩm thì ao thí nghiệm cho các chỉ số: tác động nóng lên toàn cầu là 10.187 kg CO2-eq, tác

động chua hóa là 69 kg SO2-eq và tác động phú dưỡng hóa là 55 kg PO4-eq có khác biệt đáng kể và

thấp hơn so với ao đối chứng. Trong các tác động phát thải khí nhà kính thì quá trình sản xuất thức

ăn đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ đóng góp cao nhất, kế đến là quá trình vận hành ao nuôi.

Tác động gây phát thải phú dưỡng hóa chiếm tỷ lệ cao nhất trong quá trình vận hành tại trang trại

nuôi tôm. Các giải pháp tác động kỹ thuật trong quá trình vận hành ao nuôi đã góp phần làm giảm

tỷ lệ phú dưỡng hóa so với canh tác truyền thống lần lượt là 43,66 và 47,13%.

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 6040
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long

Thử nghiệm giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trên nuôi tôm thẻ thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long
ến phát 
thải GHGs là quá trình vận hành trang trại đạt từ 
10,47 đến 47,13%, liên quan đến tác động phú 
dưỡng hóa có tỷ lệ đóng góp cao nhất từ 43,66 
đến 47,13%. Cuối cùng, nguồn nguyên liệu sản 
30 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 2. Tỷ lệ phần trăm (%) đóng góp đến phát thải GHGs của các nguồn nguyên liệu đầu vào để 
sản xuất 1 tấn tôm 
Các nguồn 
đóng góp
Acd Eut GW
TN ĐC TN ĐC TN ĐC
Quá trình vận
hành trang trại
10,47 11,80 43,66 47,13 22,34 19,55
Quá trình sản xuất
thức ăn tôm
88,36 87,07 55,54 52,61 73,26 76,67
Quá trình sản xuất
tôm giống
0,40 0,32 0,12 0,09 0,60 0,48
Quá trình sản
xuất vôi
0,60 0,81 0,2 0,2 3,65 3,29
Quá trình sản xuất
nông nghiệp
0,17 - 0,46 - 0,15 -
* Quá trình vận hành trang trại: tiêu thụ nhiên liệu xăng dầu, các loại thuốc và hóa chất sử dụng 
tại trang trại nuôi.
IV. THẢO LUẬN
Kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng 
việc tác động các giải pháp kỹ thuật trong vận 
hành ao nuôi đã làm thay đổi các thông số năng 
suất tôm. Mô hình thử nghiệm được thả nuôi 
tôm TCT thâm canh trong ao đất với mật độ 
trung bình 83,33 con/m2, tương tự với kết quả 
nghiên cứu trước đây (Phùng Thị Hồng Gấm 
và ctv., 2014; Nguyễn Thanh Long và Huỳnh 
Văn Hiền, 2015); nhưng tỷ lệ sống cao hơn, 
đạt 81,94 - 83,54%. Hệ số chuyển hóa thức ăn 
(eFCR) có sự khác biệt đáng kể giữa ao đối 
chứng (1,46) và ao thí nghiệm (1,06). Điều này 
chứng tỏ rằng việc quản lý thức ăn là rất quan 
trọng, ảnh hưởng lớn đến kết quả năng suất của 
vụ nuôi. Ở cấp độ nông hộ, việc điều chỉnh 
khẩu phần thức ăn cho tôm ăn thường dựa vào 
kinh nghiệm của người quản lý ao, do đó việc 
ước tính bao nhiêu thức ăn đang được tiêu thụ 
có thể là vấn đề. Cho ăn quá nhiều có thể gây 
tốn kém cho nông dân bằng cách tạo ra các chi 
phí thức ăn không cần thiết, trong khi cho tôm 
ăn dưới mức tăng trưởng có thể dẫn đến giảm 
sản lượng và lợi nhuận sản xuất. Trong nghiên 
cứu này, kiểm soát lượng thức ăn bằng cách 
dựa vào sàng ăn, ước lượng tỷ lệ sống và kiểm 
tra tốc độ tăng trưởng tôm để điều chỉnh khẩu 
phần cho ăn hàng ngày nhằm giảm thất thoát 
lượng thức ăn trong quá trình nuôi. Ngoài thức 
ăn thì lượng tiêu thụ nhiên liệu điện năng cũng 
là yếu tố góp phần làm tăng chi phí biến đổi. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù nghiệm 
thức thí nghiệm với thời gian nuôi tương đối 
dài hơn so với nghiệm thức đối chứng, tuy 
nhiên lượng nhiên liệu tiêu thụ điện năng thấp 
hơn nhiều so với đối chứng. Ở mô hình thử 
nghiệm việc áp dụng con lăn và thiết bị giảm 
tốc vào vận hành quạt nước giúp giảm tiêu thụ 
điện năng đáng kể do đó dẫn đến sự khác biệt 
trên. Theo kết quả nghiên cứu của Võ Nam Sơn 
và ctv., (2019) lượng tiêu thụ điện năng trung 
bình là 2.914 kWh/tấn tôm ở mô hình nuôi tôm 
TCT trên ao đất; ao lót bạt có tiêu hao điện là 
3.235 kWh/tấn tôm. Với kích cỡ tôm thu hoạch 
ở ao thí nghiệm trung bình đạt 17,59 g/con và 
năng suất đạt 13.944 kg/ha/vụ, đạt lợi nhuận 
cao gần gấp đôi so với ao đối chứng. Kết quả 
này cho thấy năng suất thấp hơn nghiên cứu 
trước đây của Phùng Thị Hồng Gấm và ctv., 
(2014) là 15,9 tấn/ha/vụ, nhưng cao hơn Đỗ 
Minh Vạnh và ctv., (2016) là 10,9 tấn/ha/vụ. 
Như vậy, để tăng lợi nhuận trong nuôi tôm thì 
ngoài việc kiểm soát các yếu tố kỹ thuật nhằm 
giúp tôm tăng cao năng suất thì cần phải duy 
31TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
trì tăng trưởng để đạt kích cỡ tôm lớn và giá 
bán cao. Bên cạnh đó, việc hạn chế các nguyên 
liệu đầu vào thuốc, hóa chất và tiết kiệm nhiên 
liệu điện năng và thức ăn là cần thiết để đạt lợi 
nhuận cao nhất. 
Hiện nay, một trong những mối quan tâm 
chính về môi trường có liên quan đến biến đổi 
khí hậu đó là việc phát thải GHGs từ hệ thống 
nuôi trồng thủy sản (Williams và Crutzen, 
2010). Trong nghiên cứu này tác động ấm 
lên toàn cầu có giá trị 10.187 kg CO2-eq thấp 
hơn so với đối chứng, trong đó tỷ lệ đóng 
góp từ nguồn sản xuất thức ăn cũng có giá trị 
(73,26%) thấp hơn đối chứng. Như vậy, nguồn 
nguyên liệu sản xuất thức ăn góp phần quan 
trọng trong hệ thống nuôi tôm thâm canh. Kết 
quả này cho thấy tương tự với nghiên cứu của 
Henriksson và ctv., (2017) là 12-15 tấn CO2-
eq. Ở Trung Quốc, kết quả phân tích của LCA 
chỉ ra rằng trong nuôi tôm thâm canh có tác 
động môi trường trên mỗi đơn vị sản xuất cao 
hơn so với canh tác bán thâm canh trong tất 
cả các loại hình tác động. Những tác động này 
chủ yếu là do sản xuất thức ăn, sử dụng điện 
và nước thải ở cấp độ trang trại (Cao và ctv., 
2011). Để giảm phát thải thì các giải pháp được 
tập trung chủ yếu là việc quản lý tốt cách cho 
ăn và quản lý sử dụng thức ăn nhằm giảm thiểu 
hệ số thức ăn.
Tác động chua hóa khi sản xuất 1 tấn tôm 
trong nghiên cứu này ở nghiệm thức thí nghiệm 
có giá trị trung bình thấp nhất là 69 kg SO2-eq 
và đối chứng là 93 kg SO2-eq, tương tự kết quả 
của Henriksson và ctv., (2017) là 60-80 kg SO2-
eq, cao hơn nghiên cứu của Cao và ctv. (2011) 
là 23,1 kg SO2-eq. Nguồn nguyên liệu đóng góp 
từ việc sản xuất thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất 
(87,07-88,36%) gây ra lượng khí thải làm chua 
hóa. Mặc dù, ao thí nghiệm có thời gian nuôi 
kéo dài hơn nghiệm thức đối chứng, tỷ lệ đóng 
góp đến phát thải từ nguồn nguyên liệu sản xuất 
thức ăn khác biệt không lớn. Do đó, việc điều 
chỉnh lượng khẩu phần cho tôm ăn, giảm thất 
thoát thức ăn có thể làm giảm bớt khí thải gây 
tác động chua hóa.
Các chất dinh dưỡng từ ao nuôi tôm là 
nguồn chính chứa nitơ, phốt pho gây ra hiện 
tượng phú dưỡng hóa. Theo nghiên cứu của 
Avnimelech và Ritvo (2003) cho rằng động vật 
thủy sản có khả năng chuyển hóa được 25-30% 
lượng protein trong thức ăn thành sinh khối của 
cơ thể, khoảng 70-75% lượng dinh dưỡng còn 
lại sẽ được thải ra ngoài môi trường nuôi. Đối 
với các trang trại nuôi tôm thâm canh thì hầu 
hết các chất dinh dưỡng này có nguồn gốc từ 
thức ăn tôm. Kết quả tác động phú dưỡng hóa 
ở nghiệm thức thí nghiệm là 55,0 kg (PO
4
-eq) 
khi sản xuất 1 tấn tôm thấp hơn so với ao đối 
chứng 80,0 kg PO
4
-eq, thấp hơn kết quả của 
Henriksson và ctv. (2017) là là 80-90 kg (PO
4
-eq), cao hơn nghiên cứu của Cao và ctv., (2011) 
là 36,9 kg PO
4
-eq. Trong nghiên cứu này, tác 
động phú dưỡng hóa được gây ra nhiều nhất 
do việc sản xuất thức ăn (52,61-55,54%), trong 
đó quá trình vận hành trang trại có tỷ lệ đóng 
góp cao nhất từ 43,66 đến 47,13% trong ba 
loại nguồn gây tác động. Những cải tiến được 
đề xuất cho nuôi tôm ở Trung Quốc bao gồm 
thay đổi thành phần thức ăn, quản lý trang trại, 
nguồn phát điện và xử lý nước thải trước khi 
thải ra ngoài môi trường. Kết quả nghiên cứu 
có thể được sử dụng để tối ưu hóa chuỗi cung 
ứng tôm định hướng thị trường và thúc đẩy sản 
xuất và tiêu thụ tôm bền vững hơn (Cao và ctv., 
2011). Ngoài ra, các chất dinh dưỡng quá mức 
nên được tái chế trong nông nghiệp hữu cơ tích 
hợp cùng với các giải pháp sục khí hiệu quả 
được cung cấp bởi các nguồn năng lượng tái tạo 
(Henriksson và ctv., 2015). Để giảm tác động 
phú dưỡng hóa thì cần có giải pháp hiệu quả để 
xử lý bùn thải hoặc giảm bùn thải từ ao nuôi tôm 
nhằm giảm ô nhiễm môi trường, chẳng hạn ứng 
dụng hệ thống tuần hoàn khép kín để ngăn chặn 
các vấn đề phú dưỡng khi xả thải. Bên cạnh đó, 
phần nước thải trong ao nuôi tôm thương phẩm 
từ việc thay nước, siphon sẽ được chuyển sang 
ao xử lý nước thải có thả cá rô phi với mật độ 
1-2 con/m2 để xử lý ô nhiễm hữu cơ trước khi 
thải ra môi trường bên ngoài hoặc tái xử dụng 
cho các đợt nuôi tiếp theo.
32 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
IV. KẾT LUẬN 
Trong các tác động phát thải khí nhà kính thì 
quá trình sản xuất thức ăn chiếm tỷ lệ đóng góp 
cao nhất, kế đến là quá trình vận hành ao nuôi. 
Tác động kỹ thuật trong quá trình vận hành ao 
nuôi góp phần làm giảm tỷ lệ phú dưỡng hóa 
so với canh tác truyền thống. Để giảm tiêu thụ 
điện, dầu trong quá trình vận hành hoạt động 
trang trại thì cần rà soát: 1) rà soát thiết kế lắp 
đặt hệ thống quạt nước hiện tại; 2) áp dụng hộp 
giảm tốc và con lăn để giảm tiêu thụ điện; và 
3) cải thiện công tác quan trắc DO để vận hành 
chế độ quạt nước hợp lý. Để tiết kiệm nhiên liệu 
trong quá trình vận hành trang trại thì việc sử 
dụng hệ thống năng lượng mặt trời trong sản 
xuất là cần thiết và nhiều tiện ích. Để giảm tác 
động phú dưỡng hóa thì giải pháp mang tính 
khả thi và phù hợp với các trang trại nuôi tôm 
hiện nay chuyển sang các hệ thống tuần hoàn 
khép kín để ngăn chặn các vấn đề phú dưỡng 
khi xả thải.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được thực hiện với sự hỗ 
trợ tài chính từ Oxfam Việt Nam, xin chân thành 
cảm ơn. Chúng tôi xin cảm ơn đến các chuyên 
gia kỹ thuật từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh 
Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau đã giúp chúng 
tôi liên hệ với cộng đồng địa phương ở các tỉnh 
của họ để chọn trang trại thực hiện thí nghiệm. 
Chúng tôi xin cảm ơn các cố vấn kỹ thuật của 
Oxfam đã cho ý đóng góp cho báo cáo dự thảo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Đỗ Minh Vạnh, Trần Hoàng Tuân, Trần Ngọc Hải 
và Trương Hoàng Minh, 2016. Đánh giá hiệu 
quả nuôi tôm chân trắng thâm canh theo các hình 
thức tổ chức ở Đồng bằng sông Cửu long. Khoa 
học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật, Trường Đại 
học Cần Thơ: 42 (2016): 50-57.
Nguyễn Thanh Long và Huỳnh Văn Hiền, 2015.Phân 
tích hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mô hình 
tôm thẻ chân trắng tỉnh Cà Mau. Khoa Thủy sản, 
Trường Đại học Cần Thơ: 37 (2015)(1): 105-111.
Phùng Thị Hồng Gấm, Võ Nam Sơn và Nguyễn 
Thanh Phương, 2014. Phân tích hiệu quả sản 
xuất các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng và tôm 
sú thâm canh ở tỉnh Ninh Thuận.
Tổng cục Thủy sản, 2018. Báo cáo tình hình sản 
xuất, tiêu thụ tôm nước lợ năm 2018 và nhiệm vụ 
giải pháp năm 2019. Báo cáo tham luận tại Hội 
nghị Triển khai kế hoạch ngành tôm năm 2019 
tổ chức bởi Bộ NN &PTNT (trang 1-16), ngày 
13/3/2019 tại Tp. Sóc Trăng.
VASEP., 2018. Mục tiêu xuất khẩu tôm đạt 4,2 tỷ 
USD năm 2019 và những giải pháp. Báo cáo 
tham luận tại Hội nghị Triển khai kế hoạch ngành 
tôm năm 2019 tổ chức bởi Bộ NN&PTNT (trang 
16-22), ngày 13/3/2019 tại Tp. Sóc Trăng.
Võ Nam Sơn, Nguyễn Thanh Phương, Đào Minh 
Hải, Nguyễn Thế Diễn, Vũ Văn Thùy, Đinh 
Xuân Lập, Nguyễn Đỗ Quỳnh, 2019. Phân tích 
hiệu quả sản xuất và sử dụng năng lượng điện 
trong nuôi tôm sú (Penaeus monodon) và thẻ 
chân trắng (Litopenaeus vannamei) thâm canh và 
quảng canh cải tiến ở Đồng bằng sông Cửu Long. 
Tập 55, Số 1 (2019) Trang: 69-79.
Tài liệu tiếng Anh
Avnimelech, Y., Ritvo, G., 2003. Shrimp and 
fish pond soils: processes and management. 
Aquaculture 220, 549–567. 
Astudillo M.F., Thalwitz G., Vollrath F., 2015. 
Modern analysis of an ancient integrated farming 
arrangement: life cycle assessment of a mulberry 
dyke and pond system. Int J Life Cycle Assess 
20:1387–1398.
Cao, L., Diana, J.S., Keoleian G., et al., 2011. Life 
Cycle Assessment of Chinese Shrimp Farming 
Systems Targeted for Export and Domestic Sales. 
Environ Sci Technol 45:6531–6538. 
Funge-smith SJ, Briggs MRP., 1998. Nutrient 
budgets in intensive shrimp ponds :implications 
for sustainability. Water 117–133.
Guinée J. B., Gorrée M., Heijungs R, et al., 
2002. Handbook on Life Cycle Assessment: 
Operational Guide to the ISO Standards. Kluwer 
Academic Publishers, Dordrecht.
Henriksson, P.J.G, Rico, A,, Zhang W, et al., 2015, 
Comparison of Asian Aquaculture Products 
by Use of Statistically Supported Life Cycle 
Assessment, Environ Sci Technol 49:14176–
14183.
Henriksson, P.J.G., Phan, L.T., Doan, B.V., Nguyen, 
P.V., Do, H.T., 2017. Life cycle assessment 
of Vietnamese shrimp farming systems in the 
Mekong Delta. Technical report, Oxfam Vietnam, 
Ha Noi.
ISO 14044, 2006. Environmental management—
Life cycle assessment— Requirements and 
guidelines, Geneva, Switzerland.
33TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Verdegem, M.C.J., Bosma, R.H.M., 2009. Water 
withdrawal for brackish and inland aquaculture, 
and options to produce more fish in ponds with 
present water use. Water Policy 11 (Suppl. 1), 
52–68.
Zimmo O. R., van der Steen N.P., Gijzen H.J., 2003. 
Comparison of ammonia volatilisation rates in 
algae and duckweed-based waste stabilisation 
ponds treating domestic wastewater. Water Res 
37:4587–94. 
Williams, J., Crutzen, P.J., 2010. Nitrous oxide from 
aquaculture, Nat, Geosci, 3, 143.
34 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 13 - THÁNG 6/2019
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
TRIALING TECHNICAL SOLUTIONS ON REDUCTION OF GHG 
EMISSION IN INTENSIVE WHITE LEG SHRIMP FARMING 
PRACTICES IN THE MEKONG RIVER DELTA
Nguyen Van Phung1*, Phan Thanh Lam1, Doan Van Bay1, Do Thuy Ha2, 
Patrik Henriksson3, Dinh Xuan Lap4, Nguyen The Dien4
ABSTRACT
The aim of this study is to make measurement on the reduction of GHG emission in shrimp farming 
through demonstration of technology and management improvement solutions in the Mekong River 
Delta. White leg shrimp was stocked in earth ponds with density of 80-90 individuals/m2 in two treatment 
groups. The average number of grow-out culture days ranged from 2 to 3 months. Life cycle assessment 
method (LCA) and specialized software CMLCA were applied to analyze and assess environmental 
impacts from production activities. Environmental impact categories included global warming (GW), 
acidification (Acd) and eutrophication (Eut) were analyzed and calculated. The LCA results show that, 
to produce 1 ton of commercial shrimp production in the treatment shrimp pond the global warming 
was 10,187 kg CO2-eq, the acidification was 69 kg SO2-eq and the eutrophication was 55 kg PO4-eq, 
which were significantly differents and lower than that of the control shrimp pond. In the greenhouse gas 
emission impacts, the feed manufacturing process accounted for the highest contribution and followed 
by the emission on-site. Eutrophication impact acounted for the highest rate in shrimp farming operation. 
Trialing technical solutions for improving shimp farming practices contributed to reduce the rate of 
eutrophication compared to traditional cultivation, 43.66 and 47.13% respectively.
Keywords: LCA, white leg shrimp, global warming, acidification, eutrophication.
Người phản biện: PGS.TS. Võ Nam Sơn
Ngày nhận bài: 18/5/2019
Ngày thông qua phản biện: 20/6/2019
Ngày duyệt đăng: 26/6/2019
1 Fisheries Ecological and Aquatic Resources Division, Research institute for Aquaculture No.2
2 Oxfam Vietnam, 22 Le Dai Hanh, Hai Ba Trung, Ha Noi
3 Stockholm Resilience Centre, Kraftriket 2B, 114 19 Stockholm, Sweden
4 International Collaborating Centre for Aquaculture and Fisheries Sustainability, 10 Nguyen Cong Hoan, Ba Dinh, Ha Noi
*Email: nguyenvanphung_ts2003@yahoo.com

File đính kèm:

  • pdfthu_nghiem_giai_phap_giam_phat_thai_khi_nha_kinh_tren_nuoi_t.pdf