Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016

TÓM TẮT Nghiên cứu này đã đánh giá ảnh hưởng của điều kiện chiết xuất bằng nước cất với sự hỗ trợ siêu âm đến hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết từ hải miên Ircinia mutans dựa vào hoạt tính khử gốc tự do DPPH và tổng năng lực khử. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nguyên liệu/nước cất, thời gian, nhiệt độ và số lần chiết có ảnh hưởng đến hoạt tính chống oxy hóa của dịch chiết từ hải miên. Nghiên cứu đã xác định được điều kiện chiết xuất thích hợp để thu được dịch chiết từ hải miên có hoạt tính chống oxy hóa cao là tỷ lệ nguyên liệu/nước cất: 1/6; thời gian chiết: 15 phút; nhiệt độ chiết: 30oC; số lần chiết: 3 lần. Từ khóa: Hải miên, hoạt tính khử gốc tự do, tổng năng lực khử, hoạt chất sinh học

ABSTRACT This study evaluated the infl uence of aqueous extraction conditions assisted by ultrasound on antioxidant activity of extracts from marine sponge Ircinia mutans through DPPH free radical scavenging activity and total reducing power. The results shown that marine sponge-To-distilled water ratio, extraction time, extraction temperature and extraction repetition affected the antioxidant activity of marine sponge extracts. The appropriate condition for antioxidant extraction from the marine sponge was sponge-to-distilled water ratio: 1/6; extraction time: 15 min; extraction temperature: 30oC; extraction repetition: 3 times

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 1

Trang 1

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 2

Trang 2

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 3

Trang 3

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 4

Trang 4

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 5

Trang 5

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 6

Trang 6

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 7

Trang 7

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 8

Trang 8

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 9

Trang 9

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 160 trang xuanhieu 10180
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 2/2016
 hành quy định pháp luật của các 
doanh nghiệp vẫn chưa thực tốt. Vẫn còn 
nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện báo cáo 
đánh giá tác động môi trường hoặc cam kết 
bảo vệ môi trường (chiếm khoảng 4,33% năm 
2012). Nhiều doanh nghiệp, cơ sở vẫn chưa có 
hệ thống xử lý nước thải; khảo sát năm 2012 
của Bộ NN&PTNT cho thấy còn 15,92% doanh 
nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải; 29% 
chưa áp quy trình công nghệ xử lý nước thải 
kiểu kết hợp (Cơ học + Hóa lý + Sinh học). 
Ngoài ra, hệ thống xử lý nước thải còn hạn 
chế (khó vận hành, thời gian xử lý dài...), công 
nghệ xử lý nước thải phức tạp, chưa được 
nghiên cứu riêng phù hợp từng loại hình chế 
biến thủy sản. Chất thải nguy hại tồn đọng 
ngày càng nhiều trong cơ sở chế biến thủy 
sản, việc sử dụng chất tẩy rửa khử trùng trong 
chế biến thủy sản ngày càng tăng. Lượng chất 
thải nguy hại khoảng 500 tấn/năm; nhưng hiện 
nay các cơ sở đang tồn đọng số lượng ngày 
càng lớn hơn (hàng nghìn tấn) chưa được bảo 
quản, xử lý; vì nhiều địa phương chưa có cơ 
quan thu gom và xử lý chất thải nguy hại. Giám 
sát, thanh tra 402 cơ sở, Bộ NN&PTNT (giai 
đoạn 2008 - 2011) phát hiện 211 lần vi phạm 
về môi trường, nhiều nhất là vi phạm về nước 
thải (51,2%), khí thải (6,2%), chất thải nguy 
hại (6,6%); số lần vi phạm năm sau nhiều hơn 
năm trước (ICAFIS, 2015) [2].
Theo Hà Phương (2015) với một loạt các 
sự vụ “nóng” về các cơ sở gây ô nhiễm môi 
trường trong chế biến thủy sản là minh chứng 
cụ thể, rõ ràng nhất. Tại một số tỉnh có ngành 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 157
công nghiệp Thủy sản phát triển, thì người dân 
luôn phải sống chung với tình trạng ô nhiễm 
kéo dài. Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, do đây là cái 
rốn thu mua tôm cá của nhiều tỉnh, sơ chế, 
chế biến phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ nội 
địa nên địa phương hiện có 244 cơ sở hoạt 
động liên quan lĩnh vực gia công, sơ chế, chế 
biến hải sản, nhưng nhiều cơ sở rất lạc hậu, 
xả nước thải trực tiếp nước chưa qua xử lý 
ra môi trường trong thời gian dài, khiến người 
dân bức xúc vì tỷ lệ cá nuôi bị chết có khi 
đến 100% [6].
Tỉnh Bạc Liêu 6 tháng đầu năm 2015, đoàn 
liên ngành kiểm tra tại 88 cơ sở sản xuất, kinh 
doanh (trong đó 63 cơ sở thu mua, sơ chế và 
nhà máy chế biến thủy sản), thấy còn 9 cơ sở 
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, đã 
phạt hành chính tổng số tiền 1,1 tỷ đồng.
Tỉnh An Giang ước tính 70% lượng rác và 
nước thải tại khu vực sản xuất chế biến thủy 
sản được đổ thẳng xuống kênh rạch chảy vào 
sông Tiền và sông Hậu. Kết quả quan trắc của 
Sở Tài nguyên và Môi trường An Giang cho 
thấy hầu hết nguồn nước được kiểm tra đều có 
chất lượng xấu. Cộng thêm chất thải thường 
xuyên từ hàng nghìn bè, ao hầm nuôi thủy sản, 
và chất thải chưa được xử lý hết của 14 nhà 
máy chế biến thủy sản đông lạnh, ngành môi 
trường An Giang rất quan ngại vấn đề ô nhiễm.
Bên cạnh các doanh nghiệp hoạt động 
trong khu công nghiệp tập trung thì rất nhiều 
cơ sở chế biến nhỏ lẻ nằm lẫn trong khu dân 
cư và vùng sản xuất cũng góp phần vào nạn 
ô nhiễm [5].
Đó chỉ là những ví dụ trong hàng nghìn 
những điển hình như thế. Điều này dẫn đến 
tình trạng các sông lớn, ao hồ, mương máng 
bị ô nhiễm ngày càng tăng. Ngườidân kêu cứu 
nhưng chẳng mấy ai đoái hoài. Các doanh 
nghiệp thủy sản cũng không chịu trách nhiệm 
khắc phục hậu quả của mình gây ra. Hoặc có 
chăng khi các cơ quan chức năng vào cuộc thì 
cũng lỏng lẻo làm cho qua chuyện.
Ngoài ra, mối quan hệ lợi ích và sự liên kết 
giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị thủy sản 
còn lỏng lẻo và thiếu hiệu quả, tác động tiêu 
cực đến chất lượng sản phẩm, công tác truy 
xuất nguồn gốc, làm giảm khả năng cạnh tranh 
của sản phẩm thủy sản Việt Nam. Tính từ năm 
2014 đến nay đã có gần 32.000 tấn hàng thủy 
sản bị trả về. Riêng 9 tháng đầu năm nay, Việt 
Nam đã có 181 lô hàng bị trả về do thủy sản 
bị cảnh báo nhiễm kháng sinh vượt mức cho 
phép, chứa mầm bệnh và buộc trả về nước tại 
hầu hết thị trường. Từ những nguyên nhân đó 
mà các nước mua hàng dè dặt hơn với mặt 
hàng thủy sản Việt Nam và các doanh nghiệp 
thủy sản cũng đi vào điêu đứng hơn [4].
Nhưng thiết nghĩ đó, cũng là mộ t phần 
hậu quả do các doanh nghiệp thủy sản chưa 
làm tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
mình. Thực tế trên cho thấy tầm quan trọng và 
tính cấp thiết của công tác tuyên truyền, phổ 
biến về TNXH bởi tất cả những hành vi của 
con người đều do ý thức của họ điều khiển. 
Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để việc thực 
hiện TNXH của doanh nghiệp trở thành động 
cơ bên trong của mỗi doanh nghiệp.
 3. Một số giải pháp nhằm tăng cường trách 
nhiệm xã hội của ngành thủy sản trong hội 
nhập quốc tế
Để tăng cường trách nhiệm xã hội của các 
doanh nghiệp nói chung, ngành thủy nói riêng, 
mà trước hết là tăng cường trách nhiệm của 
ngành thủy sản về vấn đề bảo vệ môi trường 
trong hội nhập quốc tế theo tôi cần thực hiện 
các biện pháp sau:
Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước:
- Tăng cường tuyên truyền đối với cộng 
đồng doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp 
kinh doanh thủy sản nói riêng về lợi ích của 
việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp. Việc tuyên truyền có thể được thực 
hiện thông qua nhiều hình thức, như qua các 
phương tiện thông tin đại chúng, các đợt tập 
huấn bắt buộc cho lãnh đạo các doanh nghiệp, 
các hội nghị, hội thảo khoa học... Thậm chí 
việc tuyên truyền này cần được mở rộng đến 
cả các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
158 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính 
sách vĩ mô... Đồng thời, nội dung của việc thực 
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, các 
thông tin cập nhật về các bộ quy tắc ứng xử, 
các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội liên quan 
phải được phổ biến đầy đủ và rõ ràng đến 
cộng đồng doanh nghiệp cũng như người dân.
- Phân định rõ ràng trách nhiệm của các 
cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể liên 
quan trong việc hoạch định chính sách, thông 
tin tuyên truyền, kiểm tra, xử lý sai phạm trong 
khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản thực 
phẩm... đối với các vấn đề liên quan đến trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, 
trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường 
nói riêng. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản 
lý nhà nước với các chủ thể khác có liên quan 
cũng đóng vai trò hết sức quan trọng vì trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp chỉ được nhấn 
mạnh và trở nên cấp thiết khi có cơ chế giám 
sát đồng bộ, có sự kết hợp giữa chính quyền 
và các lực lượng dân sự trong xã hội, đặc biệt 
là các hiệp hội, tổ chức phi chính phủ và các 
phương tiện truyền thông trong đánh bắt, cũng 
như nuôi trồng chế biến thủy sản.
- Ban hành các chính sách khuyến khích, 
hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm 
xã hội. Đặc biệt, quan tâm hỗ trợ các doanh 
nghiệp chế biến thủy sản trong việc thực hiện 
các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, sản xuất 
theo công nghệ sạch. Thực hiện nghiêm ngặt 
hệ thống xử lý nước thải.
Về phía các doanh nghiệp chế biến hàng 
thủy sản:
+ Thay đổi nhận thức về trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp, đặc biệt đối với đội ngũ các 
nhà quản trị cấp cao trong doanh nghiệp. Việc 
thực hiện trách nhiệm xã hội không chỉ đơn 
giản là vấn đề đạo đức kinh doanh hay các hoạt 
động từ thiện theo cách hiểu mang tính truyền 
thống; không phải là các hoạt động đòi hỏi 
doanh nghiệp phải bỏ chi phí mà không đem lại 
lợi ích kinh tế, ngược lại, thực hiện trách nhiệm 
xã hội sẽ giúp các doanh nghiệp có được 
nhiều lợi thế trong cạnh tranh trên thị trường 
quốc tế. Đối với ngành thủy sản vấn đề này 
càng có ý nghĩa xã hội to lớn. Doanh nghiệp 
thủy sản thực hiện trách nhiệm xã hội không 
phải vì những ràng buộc của pháp luật, mà 
theo tinh thần tự giác vì chính lợi ích của 
doanh nghiệp và các đối tượng có liên quan, 
cũng như cộng đồng xã hội. Đồng thời đem lại 
lợi thế cạnh tranh thị trường trong nước cũng 
như xuất khẩu sang các thị trường quốc tế.
+ Tìm hiểu và thực hiện quy trình sản xuất 
thủy sản thực phẩm “sạch” (an toàn) theo đúng 
ý nghĩa là an toàn đối với cả người sản xuất, 
người sử dụng và môi trường. Người tiêu dùng 
sẵn sàng trả một giá cao hơn cho những nông 
sản thực phẩm được sản xuất theo quy trình 
sạch “từ đồng ruộng đến bàn ăn”. Các ngành 
thủy sản xây dựng được thương hiệu mạnh, 
cung ứng các sản phẩm có chất lượng cao, 
bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng 
công nghệ sản xuất và chế biến thân thiện 
với môi trường, chắc chắn sẽ nhận được sự 
tín nhiệm của thị trường và người tiêu dùng 
không những ở thị trường trong nước mà ở cả 
thị trường nước ngoài. Và, điều đó bảo đảm 
cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao ở thị 
trường nội địa và đặc biệt là bối cảnh hội nhập 
ngày càng nghiêm ngặt
+ Kiên trì xây dựng và tham gia vào chuỗi 
cung ứng thủy sản với tư cách là “đầu tàu” 
trong chuỗi cung ứng. Muốn vậy, các doanh 
nghiệp cần chủ động đặt hàng với các cơ sở 
nghiên cứu để có thể cung cấp cho các hộ 
nông dân, các hợp tác xã những giống, loại 
thuốc bảo vệ thực vật an toàn và nằm trong 
danh mục được phép sử dụng bảo đảm chất 
lượng. Tham gia vào chuỗi cung ứng thủy sản 
an toàn phải bao gồm tất cả các chủ thể có 
liên quan đến quá trình sản xuất, chế biến, bảo 
quản, vận chuyển, tiêu thụ thủy sản. Những 
liên kết này bao gồm cả liên kết giữa các khâu 
sản xuất - chế biến - tiêu thụ, giữa các “nhà”: 
Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và 
ngư dân. Việc cộng đồng có trách nhiệm, chia 
sẻ rủi ro với người dân cũng là một vấn đề mà 
các doanh nghiệp chế biến cần quan tâm hơn 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 159
để bảo đảm tính bền vững của các mối liên kết, 
nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
đối với cộng đồng, trước hết là đối với ngư dân 
vốn là bộ phận dễ bị tổn thương nhất trước 
những biến động khó lường của thị trường và 
các yếu tố thời tiết, khí hậu trong đánh bắt và 
nuôi thủy sản .
Thúc đẩy thực hành Trách nhiệm xã 
hội (CSR) trong chuỗi cung ứng thủy sản 
trong chuỗi cung ứng khai thác thủy sản ở Việt 
Nam, với sự hỗ trợ từ OXFAM Việt Nam, với 
các mục tiêu chính: đánh giá hiện trạng thực 
hành trách nhiệm xã hội trong chuỗi cung ứng 
khai thác thủy sản tại Việt Nam; rà soát các 
chương trình, chứng nhận đang áp dụng tại 
Việt Nam; từ những nghiên cứu đó, xây dựng 
Bộ nguyên tắc thực hành phù hợp điều kiện, 
đặc thù của ngành thủy sản Việt Nam; thúc đẩy 
các tác nhân trong chuỗi cung ứng khai thác 
thủy sản thực hành, áp dụng; vận động để cơ 
quan quản lý nhà nước xây dựng, ban hành 
các văn bản pháp lý hướng dẫn thực hành [7].
Nuôi trồng thủy sản trong vấn đề bảo vệ 
môi trường:
+ Các cơ quan chức năng Nhà nước cũng 
như các chính quyền địa phương qui hoạch 
quản lý, chỉ đạo hướng dẫn người dân nuôi 
trồng thủy sản đúng kỹ thuật và đảm bảo 
môi trường.
+ Không sử dụng thuốc diệt tảo, ốc, rong, 
cá tạp bằng những hóa chất có nguồn gốc 
thuốc trừ sâu; Không xả nước thải, bùn lắng ra 
môi trường khi chưa được xử lý; Không nuôi 
thả con giống khi chưa được kiểm nghiệm chất 
lượng; Phải có ao lắng trong nuôi tôm thâm 
canh và khu vực ao lắng xử lý nguồn nước 
cấp; Có qui chuẩn thực hành nuôi thủy sản tốt; 
Người nuôi tôm có tham gia vào các câu lạc 
bộ, hợp tác xã, tổ sản xuất và không làm ăn 
riêng lẻ.
+ Để hạn chế độc tố, kim loại nặng tồn 
lưu trong đất do quá trình sử dụng thuốc, hóa 
chất trong những vụ trước, việc phơi nền đất 
sau cày xới nền đáy ao rồi bón vôi, cấp/tháo 
nước nhiều lần nhằm hoạt hóa nền đáy là rất 
cần thiết. Không nên lấy nước trực tiếp vào 
ao nuôi để xử lý. Chỉ nên lấy vào ao lắng xử lý 
xong mới cấp qua ao nuôi để tránh tình trạng 
kim loại nặng, hóa chất độc hại tích tụ dưới 
đáy ao nuôi.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾ N NGHỊ 
1. Kế t luậ n
Như vậy việc triển khai trách nhiệm xã hội 
doanh nghiệp thủy sản một cách nghiêm túc, 
tự giác không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho 
ngành thủy sản mà còn vì mục tiêu lớn hơn 
là phát triển bền vững và hiểu rộng ra là giải 
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và 
bảo vệ môi trường, nâng cao vị thế cạnh tranh 
trong hội nhập quốc tế. Do đó ngà nh thủ y sả n 
luôn nâng cao chấ t lượ ng sả n phẩ m đặ c biệ t 
nuôi trông thủ y sả n tuyệ t đố i không sử dung 
cá c hó a chấ t có nguồ n gố c từ thuố c trừ sâu, 
không xả nướ c thả i khi chưa xử lý , không thả 
con giố ng khi chưa đượ c kiể m nghiệ m chấ t 
lượ ng. Các doanh nghiệp chế biến cần quan 
tâm hơn để bảo đảm tính bền vững của các 
mối liên kết, nâng cao trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp đối với cộng đồng, cung ứng các 
sản phẩm có chất lượng cao, bảo đảm vệ sinh 
an toàn thực phẩm, sử dụng công nghệ sản 
xuất và chế biến thân thiện với môi trường, 
chắc chắn sẽ nhận được sự tín nhiệm của 
thị trường và người tiêu dùng không những 
ở thị trường trong nước mà ở cả thị trường 
nước ngoài. Và, điều đó bảo đảm cho doanh 
nghiệp có sức cạnh tranh cao ở thị trường nội 
địa và đặc biệt là bối cảnh hội nhập ngày càng 
nghiêm ngặt hiệ n nay.
2. Kiế n nghị 
- Các cơ quan quản lý nhà nước và các 
chủ thể liên quan cầ n phả i hoạch định chính 
sách, thông tin tuyên truyền, kiểm tra, xử lý sai 
phạm trong khai thác, nuôi trồng và chế biến 
thủy sản thực phẩm... đối với các vấn đề liên 
quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
nói chung, trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi 
trường nói riêng.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2016
160 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
- Cầ n thực hiệ n Trách nhiệm xã hội 
(CSR) trong chuỗi cung ứng thủy sản trong 
chuỗi cung ứng khai thác thủy sản ở Việt Nam, 
với sự hỗ trợ từ OXFAM Việt Nam, với các mục 
tiêu chính: đánh giá hiện trạng thực hành trách 
nhiệm xã hội trong chuỗi cung ứng khai thác, 
nuôi trồ ng thủy sản tại Việt Nam.
- Cầ n phả i xử lý nghiêm cá c vi phạ m liên 
quan đế n môi trườ ng đặ c biệ t cá c loạ i thuố c 
khá ng vi lượ ng 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Hoàng Anh, Đặng Thùy Trang (người dịch) (2007), Đạo đức kinh doanh, Cẩm nang quản lý doanh 
nghiệp kinh doanh có trách nhiệm trong các nền kinh tế thị trường mới nổi, NXB Trẻ.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Quản lý sản phẩm xử lý, cải tạo môi trường trong nuôi trồng 
thủy sản, truy cập từ 
3. Lê Đăng Doanh (2013), Một số vấn đề trách nhiệm xã hội ở doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Triết học số 2. 506
4. Đỗ Đạt (2014) Nâng cao trách nhiệm xã hội trong phát triển Thủy sản, LĐXH 
5. Đỗ Hương( 2013) Trách nhiệm xã hội ngành thủy sản trong hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt 
Nam- VCCI
6. Hà Phương (2015), Cần thiết phải thực hành trách nhiệm xã hội trong ngành thủy sản, Môi trường Việt Nam - 
ICAFIS- Thủy sản Việ t Nam
7. Khánh Nam (2015), Thúc đẩy trách nhiệm xã hội trong ngành thủy sản, truy cập từ 
com.vn/thuc-day-thuc-hanh-trach-nhiem-xa-hoi-trong-nganh-thuy-san-article-14151.tsvn

File đính kèm:

  • pdftap_chi_khoa_hoc_cong_nghe_thuy_san_so_22016.pdf