Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 1/2016
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Khánh Hòa là địa phương có sản lượng đánh bắt hải sản cao, chế biến hải sản phát triển. Hải sản là thực phẩm ưa thích của người dân địa phương và du khách. Tuy nhiên, thực trạng về vệ sinh an toàn thực phẩm hải sản ở Khánh Hòa nói riêng và ở Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập. Sự vi phạm các quy định về ATTP hải sản vẫn đang diễn ra trong các mắt xích của chuỗi cung ứng hải sản. Do đó, ATTP hải sản đã trở thành vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Một trong những hướng nghiên cứu mà các nhà nghiên cứu quan tâm là kiến thức, thái độ và thực hành ATTP của người làm việc tiếp xúc với hải sản. Kiến thức, thái độ và thực hành ATTP của người làm việc tiếp xúc với thực phẩm là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đảm bảo ATTP hải sản. Đã có nhiều nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành ATTP của người tham gia cung ứng thực phẩm trên thế giới (Walker và cộng sự, 2004; Haaapala và Probart, 2005; Murat Bas, 2006; Ansari-Lari và cộng sự, 2012) và ở Việt Nam (Hà Tây, Hà Nội, An Giang, Thừa Thiên Huế, Vĩnh Long, Quảng Ngãi, Hải Phòng, Phú Yên, Phan Rang – Tháp Chàm, Quảng Bình) (Nguyễn Thị Kim, 2005; Nguyễn Hùng Long, 2007; Lê MinhUy, 2009; Lê Văn Bào, 2010; Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Phú Yên, 2010; Mai Thị Phương Ngọc, 2011; Nguyễn Thị Thanh Hương, 2012) nhưng chưa có nghiên cứu nào về kiến thức, thái độ và thực hành ATTP của những người tham gia cung ứng hải sản. Vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ về an toàn thực phẩm hải sản của người làm việc tiếp xúc với hải sản tại cơ sở thu mua và chợ cá ở Khánh Hòa là hết sức cần thiết. Mục tiêu cụ thể của việc thực hiện nghiên cứu này là để cung cấp các thông tin về kiến thức, kỹ năng và thái độ về an toàn thực phẩm hải sản của người tham gia cung ứng hải sản để làm cơ sở đề xuất các giải pháp đảm bảo an toàn thực phẩm hải sản
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 1/2016
ược xem xét bao gồm hàm lượng oxy hòa tan (DO) và các chất dinh dưỡng vô cơ như ammonia, nitrate, nitrite và phosphate (Demirak và cộng sự, 2005; Jiangzengjie và cộng sự, 2009). Tuy nhiên, để tiếp cận có hệ thống, đặc biệt khi đánh giá theo quy mô hệ sin h thái, yếu tố trầm tích và quần xã sinh vật (đặc biệt là sinh vật đáy) cần được xem xét (Domínguez và cộng sự, 2001; Aguado và cộng sự, 2004). Theo cách tiếp cận này, từ năm 1997 Ervik và cộng sự đã mô tả khái niệm về một hệ thống quản lý được gọi là MOM (Modeling - Ongrowing fi sh farms - Monitoring) có thể được sử dụng để điều chỉnh tác động môi trường địa phương của các trại nuôi cá biển đối với sức tải (holding capacity) của các địa điểm. Khái niệm này dựa trên sự phối hợp của 3 bộ phận là đánh giá tác động môi trường, quan trắc tác động và tiêu chuẩn chất lượng môi trường (Environmental Quality Standrads - EQS) trong một hệ thống. Số lượng quan trắc phụ thuộc vào mức độ tác động môi trường. Hệ thống này giới thiệu 2 thuật ngữ: (1) mức độ sử dụng khu vực nuôi, và (2) mức độ quan trắc (phụ thuộc vào tác động môi trường). Trong điều kiện Nauy, cơ quan quản lý đã phát triển một chương trình quan trắc hoạt động nuôi lồng biển bao gồm tiêu chuẩn chất lượng môi trường. Chương trình này quan tâm đến tác động lên trầm tích bên dưới trại. Theo đó, công việc này gồm 3 dạng điều tra tăng dần về mức độ phức tạp và tính chính xác. Một mô hình mô phỏng tác động môi trường đối với một khu vực được cho trước thông tin về kích thước trại, hoạt động nuôi, điều kiện thủy động lực học và địa hình đã được phát triển (nhưng chưa được kiểm định vào thời điểm 1997). Các tác giả cho rằng hệ thống MOM sẽ giúp duy trì điều kiện môi trường mong muốn trong và xung quanh trại nuôi cá. Hệ thống cũng có thể là một công cụ có giá trị đối với việc lựa chọn khu vực nuôi và quản lý môi trường ven bờ. Tiếp theo đó, Hansen và cộng sự (2001) đã giới thiệu một chương trình quan trắc tác động của chất thải hữu cơ từ các trại nuôi cá biển. Chương trình này gồm 3 dạng điều tra (A, B và C) được áp dụng thương xuyên hơn với sự gia tăng tác động môi trường. Dạng A là một sự đo lường đơn giản tỷ lệ trầm tích bên dưới các lồng; dạng điều tra B cung ứng một quan trắc về xu hướng của điều kiện trầm tích, và dạng C là sự điều tra toàn diện cấu trúc quần xã động vật đáy kích thước lớn. Dạng A và B được thiết kế đặc biệt đối với việc nuôi cá và sau đó sử dụng một vài tham số nhằm làm công tác điều tra hiệu quả hơn. Dạng C sử dụng các phương pháp và quy trình đã được thiết lập và đã được áp dụng trươc đó trong các chương trình quan trắc. Theo đó các tiêu chuẩn chất lượng môi trường đã được thiết lập đối với dạng điều tra B và C. Đến năm 2004, Stigebrandt và cộng sự tiếp tục trình bày về mô hình đánh giá sức tải (holding capacity) của các khu vực nuôi cá. Theo thuật ngữ được sử dụng, sức tải được đánh giá dựa trên năng lực sản xuất cá tối đa trên tháng với sự xem xét đến 3 yêu cầu môi trường cơ bản: (i) hệ động vật đáy ở khu vực trại không được phép biến mất do sự tích lũy vật chất hữu cơ. (ii) chất lượng nước trong lồng phải được duy trì ở mức cao. (iii) chất lượng nước ở vùng xung quanh trại không được xấu đi. Đề xuất của các tác giả cho thấy đây là một mô hình phức tạp bao gồm 4 mô hình phụ bao gồm mô hình phụ cá nuôi, mô hình phụ phân tán chất thải, mô hình phụ sinh vật đáy và mô hình phụ chất lượng nước trong các lồng nuôi. Trong tính toán, tất cả 3 yêu cầu môi trường nêu trên phải được đáp ứng. Theo các tác giả, việc thực hiện yêu cầu (i) và (ii) tùy thuộc và đặc điểm môi trường địa phương (như là độ sâu, chu nhiệt độ hàng năm và phân bố Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2016 166 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG nhiệt độ trong cột nước, hàm lượng oxy hòa tan và ammonium). Ngoài ra kết quả tính toán còn phụ thuộc mật độ cá tối đa trên mỗi diện tích nuôi, do vậy cấu trúc của trại cũng là yếu tố quan trọng. Thêm vào đó, tỷ lệ cho ăn và thành phần thức ăn cũng cần được đưa vào mô hình. Có thể thấy rằng mặc dù mô hình cung cấp một kết quả mang tính cấu trúc và định lượng các khía cạnh môi trường quan trọng của hoạt động nuôi cá, qua đó đưa đến khả năng xếp hạng hàng loạt yếu tố ảnh hưởng tùy theo tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của chúng. Tuy nhiên, kết quả tính toán của mô hình cũng có thể không chắc chắn do việc thiếu dữ liệu hiện trường được cập nhật. Do đó, mô hình phải kết nối chặt chẽ với chương trình quan trắc của hệ thống MOM nêu trên. Để tăng độ chính xác của kết quả tính toán theo mô hình, dữ liệu phải được cập nhật thường xuyên nên chí phí sẽ rất lớn. Ở Việt Nam, tiếp cận hệ thống với vấn đề ảnh hưởng của nuôi biển đến môi trường, Khanh và cộng sự (2009) áp dụng phương pháp luận LOICZ (Land - Ocean Interaction in the Coastal Zone) để nghiên cứu sức chịu tải môi trường thủy vực nuôi cá lồng bè ven biển. Theo các tác giả, chất thải từ các hệ thống nuôi trên biển được xem là nguồn thải tại chỗ và là nguồn phát thải quan trong nhất trực tiếp tác động làm giảm sức “chịu tải môi trường của thủy vực” (Environment Carrying Capacity). Để đánh giá vấn đề này, các tác giả sử dụng nhóm các thông số môi trường cơ bản của thủy vực bao gồm: - Các thông số môi trường nền: nhiệt độ (toC), độ mặn (S‰), pH, oxy hòa tan (DO), độ đục (turbidity), - Các thông số ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng: nhu cầu oxy sinh hóa (BOD), nhu cầu oxy hóa học (COD), N tổng số (N-Total), P tổng số (P-Total), tổng chất rắn lơ lửng (TSS), - Các thông số độc hại: kim loại nặng, hoá chất, dầu mỡ, kháng sinh, - Các thông số sinh học: khu hệ sinh vật phù du, vi sinh vật, Nhằm xác định khả năng năng tự làm sạch của môi trường, các tác giả sử dụng các chỉ số DIP (Dissolved Inorganic Phosphorus), DIN (Dissolved Inorganic Nitrogen) và COD (Chemical Oxygen Demand) để đánh giá cân bằng vật chất thủy vực với DIP là dinh dưỡng khoáng hoà tan của P; DIN là tổng dinh dưỡng khoáng hoà tan của N. Trong nghiên cứu này, năng lực của môi trường (Environment Capacity) được các tác giả xác định theo công thức: EC = (Cmax – Co).(1 + R).V Trong đó: - EC: Năng lực môi trường (tính trung bình cho một đơn vị thời gian) - Cmax: Nồng độ chất ô nhiễm tối đa cho phép, Tiêu chuẩn môi trường Việt Nam (TCVN 5943-1995, TCVN 6986-2001 và các TC khác) - Co: Nồng độ chất ô nhiễm tại thời điểm nghiên cứu, trong thuỷ vực . - V: Thể tích của các thuỷ vực (Water volume). - R: tỷ lệ trao đổi nước của thủy vực với các thủy vực khác (fl ushing rate). Và sức chịu tải môi trường (Environment Carrying Capacity) được xác định theo công thức: ECC = EC/PL với PL (Pollutant load) là lượng chất ô nhiễm phát thải do 1 ha (1 ô lồng nuôi, hoặc 1 tấn sản phẩm nuôi trồng) trên một đơn vị thời gian. Theo đó, kết quả tính sức chịu tải môi trường sẽ là số lượng các “đơn vị” nuôi thuỷ sản (số lồng bè/ha) tối đa đối với mỗi thuỷ vực cụ thể. So sánh với mô hình đề xuất bởi Stigebrandt và cộng sự, mô hình của các tác giả đơn giản hơn, dễ thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, do chỉ dựa trên những thông số hóa học mà không quan tâm đến những thông số môi trường khác nên kết quả mô hình có thể không chính xác nếu xem xét theo khía cạnh môi trường, đặc biệt khi xem xét vai trò của khu hệ sinh vật. Những vấn đề nêu trên cho thấy rằng cần thiết phải mở rộng những nghiên cứu đánh giá sức “chịu tải môi trường của thủy vực” Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2016 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 167 tương tự của Khanh và cộng sự (2009) để đưa đến hệ thống bao quát hơn đối với việc quản lý hoạt động biển tương tự MOM (Ervik và cộng sự, 1997). Theo khía cạnh tác động môi trường, việc phát triển hoạt động nuôi biển cần bảo đảm bảo đảm tối thiểu 3 yêu cầu như đã đã nêu trên đây của Stigebrandt và cộng sự (2004). Tuy nhiên, Aguado và cộng sự (2004) cho rằng việc gần các nguồn ô nhiễm khác như dòng chảy kênh thoát lũ và nước thải đô thị có thể có mối liên hệ với sự biến động theo không gian và thời gian của các tham số được chọn trong nghiên cứu tác động của hoạt động nuôi lồng đến môi trường biển. Rõ ràng, cần bổ sung những dữ liệu này với các tham số vật lý, hóa học và sinh học để cung cấp một bức tranh về ảnh hưởng hoạt động của trại nuôi và nhằm phân biệt với các ảnh hưởng bất kỳ từ những nguồn tác động môi trường khác trong cùng khu vực. III. KẾT LUẬN Tác động bất lợi về mặt môi trường của hoạt động nuôi lồng biển là điều không thể tránh khỏi. Do vậy, để tạo điều kiện phát triển, đồng thời hạn chế tác động của hoạt động nuôi lồng biển đến môi trường, cần có thêm những nghiên cứu, cả về mặt kỹ thuật lẫn khía cạnh giám sát-quản lý hoạt động như các nghiên cứu về chế độ dinh dưỡng của đối tượng nuôi kết hợp sản xuất thức ăn, nghiên cứu ứng dụng các mô hình nuôi kết hợp, đánh giá sức tải, mô hình hóa (phát thải dinh dưỡng và dự báo tác động môi trường), quản lý hoạt động trại nuôi (luân chuyển bố trí lồng nuôi và thay đổi chu kỳ nuôi) và xây dựng bộ tiêu chuẩn giám sát môi trường đối với từng vùng. Đồng thời cần kết hợp các điều tra cơ bản vùng nước ven bờ nhằm phân biệt tác động của hoạt động nuôi lồng biển với các hoạt động khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Thái Ngọc Chiến, Knut Barthel, Rune Rosland, Bùi Hồng Long và Vũ Tuấn Anh; 2005. Ứng dụng mô hình tính sức tải môi trường cho nuôi ốc hương thâm canh tại vịnh Văn Phong, Vạn Ninh, Khánh Hòa. Trong: Tuyển tập báo cáo Khoa học – Hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần thứ 4 (Proceeding of the fourth national work- shop on marine mollusks). Nha Trang, 5-6/9/2005. 2. Trần Lưu Khanh, Nguyễn Đức Cự và Trương Văn Bổn; 2009. Sức chịu tải môi trường thuỷ vực nuôi cá lồng bè ven biển. 3. (truy cập ngày 5/11/2010) 4. Nguyễn Thị Mai và Lê Anh Tuấn. Tác động của việc sử dụng thức ăn tươi trong nuôi cá biển lên môi trường ở vùng biển Vân Đồn, tính Quảng Ninh. Tạp chí Khoa học – Công nghệ thủy sản. Trường Đại học Nha Trang. Số 2, 2012. Tiếng Anh 5. Aguado-Giménez F. và García – García. B.; 2004. Assessment of some chemical parameters in marine sediments exposed to offshore cage fi sh farming infl uence: a pilot study. Aquaculture 242: 283–296. 6. An N. B. T. and Tuan L. A.; 2012. Current situation of spiny lobster (Panulirus ornatus) culture in Khanh Hoa province. Proceeding of 3rd workshop of national aquaculture young researcher – Hue 24-25/3/2012, pp 378 - 381 7. Boi N.V.Q, 2002. Lobster (Panulirus ornatus) cage culture practice and the potential environmental impacts of feed use in Van Ninh district, Khanh Hao province, Viet Nam. Master thesis, Asian Institute of Technology, Bangkok, Thailand. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2016 168 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 8. Buschmann A. H., Riquelme V. A., Hernández-González M. C., Varela D., Jiménez J. E., Henrı´quez L. A., Vergara P. A., Guín˜ez R., và Filún L.; 2006. A review of the impacts of salmonid farming on marine coastal ecosystems in the southeast Pacifi c. ICES Journal of Marine Science, 63: 1338e1345. 9. Demirak A., Balci A. và Fekc M. T.; 2006. Enviromental impact of aquaculture in Gululluk Bay, Turkey. Envi- ronmental Monitoring and Assessment 123: 1–12. 10. Domínguez L. M., Calero G. L., Martín J. M. V. and Robaina L. R.; 2001. A comparative study of sediment under a marine cage farm at Gran Canaria Island (Spain) - Premilinary results. Aquaculture 192: 225 – 231. 11. Ervik A., Hansen P. K., Aure J., Stigebrandt A., Johannessen P. và Jahnsen T.; 1997. Regulating the local envi- ronmental impact of intensive marine fi sh farming: I. The concept of the MOM system (Modleling – Ongoing fi sh farms – Monitoring). Aquaculture 158: 85 – 94. 12. Essa M. A., Helal A. M., El-Wafa M. A. A. và El-Gharabawy M. M.; 2005. Preliminary investigation into the inshore marine cage culture in Egypt and their impacts on marine resources. Egyptina Journal of Aquaculture Research. Vol. 31, special issue: 209-320. 13. Halwart M., Soto D. and Arthur J. R.; 2007. Cage aquaculture – Regional and global ovview. FAO Fisheries Technical Paper. No. 498. Food and Agriculture Organizations of the United Nations (FAO). 14. Hansen P. P., Ervik A., Schaannning M., Johannessen P., Aure J., Jahsen T. và Stigebrandt A.; 2001. Regulating the local environmental impact of intensive marine fi sh farming: II. The monitoring prgramme of the MOM system (Modleling – Ongoing fi sh farms – Monitoring). Aquaculture 194: 75 – 92. 15. Islam Md. S.; 2005. Nitrogen and phosphorus budget in coastal and marine cage aquaculture and impacts of effl uent loading on ecosystem: review and analysis towards model development. Marine Pollution Bulletin 50: 48–61. 16. Jiangzengjie, Fang Jianguang, Zhang Jihong. Nutrient budget in marine fi sh cage culture system and Integrated Multi-trophicAquaculture scheme (2ndregional maricultureconference-Jejuisland). Yellow Sea Fisheries Research Institute, CAFS, 2009.06.16. 17. Karakassis I., Tsapakis M., Hatziyanni E., Papadopoulou K.N., and Plaiti W.; 2000. Impact of cage farming of fi sh on the seabed in three Mediterrane a n coastal areas. ICES Journal of Marine Science, 57: 1462–1471. 18. Lee J.H.W., Choi K.W. và Arega F.; 2003. Environmental management of marine fi sh culture in Hong Kong. Marine Pollution Bulletin 47: 202–210. 19. Price C., Black K. D., Hargrave B. T., Morris Jr J. A.; 2015. Marine cage aquaculture and the environment: the effects on water quality and primary production. AQUACULTUREENVIRONMENT INTERACTIONS. Vol. 6: 151–174. 20. Price C. S. and Morris, Jr. J. A.; 2013. Marine Cage Culture and the Environment: Twenty-fi rst Century Science Informing a Sustainable Industry. NOAA Technical Memorandum NOS NCCOS 164. 21. Stigebrandt A., Aure J., Ervik A. và Hansen P. K.; 2004. Regulating the local environmental impact of intensive marine fi sh farming: III. A model for estimation of the holding capacity in the Modleling – Ongoing fi sh farms – Monitoring system. Aquaculture 234: 239 – 261. 22. The State of World Fisheries and Aquaculture – Opportunites and Challenges. Food and Agriculture Org anizations of the United Nations (FAO), 2014. 23. Tuan L. A. and Hung. L. V.; 2008. Comparison of biological, economic and environmental effi ciency of sea- cage culture of Panulirus ornatus lobsters using different practical diets. In: Spiny lobster aquaculture in the Asia–Pacifi c region (Proceedings of an international symposium held at Nha Trang, Vietnam, 9–10 December 2008. Editor: Williams K. C.); Aciar (2009). Website: 24. Tổng cục thủy sản (Directorate of Fisheries) 25. stenet.gov.vn/e-nuoi-trong-thuy-san/b-nuoi-thuy-san/tong-quan-nuoi-trong-thuy-san-the-gioi-gi- ai-111oan-2000-2012/ (truy cập ngày 3/10/2015)
File đính kèm:
- tap_chi_khoa_hoc_cong_nghe_thuy_san_so_12016.pdf