Nghiên cứu ứng dụng rong biển Ulva prolifera như là nhân tố lọc sinh học để giảm thiểu chất thải nitrogen trong hệ thống nuôi cá cam Nhật Bản (Seriolla quinqueradiata)
TÓM TẮT
Ngành nuôi trồng thủy sản đã và đang phát triển một cách nhanh chóng trên toàn thế giới, kéo theo
đó các hệ lụy từ nguồn nước thải đang gây tác động không nhỏ đến môi trường. Nhận thức được vấn
đề này, nhiều phương pháp nuôi thủy sản mới đang được ứng dụng rộng rãi để tái sử dụng nguồn
nước đồng thời giảm thiểu lượng nước thải vào môi trường và qua đó giải quyết vấn đề tích lũy của
nitrogen trong môi trường nước. Một trong những giải pháp được đánh giá có thể mang lại nhiều
tiềm năng trong nuôi trồng thủy sản là mô hình nuôi kết hợp với các loài rong hoặc tảo biển. Rong
biển Ulva prolifera (O.F. Muller, 1778) được báo cáo rằng có thể phát triển mạnh mẽ trong môi
trường giàu dinh dưỡng và có khả năng hấp thụ hiệu quả nguồn dinh dưỡng tích lũy trong nước.
Trong nghiên cứu này, rong biển được sử dụng như là một vật liệu lọc sinh học kết hợp với hệ thống
nuôi khép kín nhằm giảm thiểu nitrogen trong nuôi trồng thủy sản. Để thực hiện được mục tiêu này,
hai thí nghiệm liên tục đã được thực hiện. Ở thí nghiệm thứ nhất, hai hệ thống nuôi khép kín quy
mô pilot đã được thiết kế và lắp đặt để đánh giá hiệu quả ứng dụng của rong biển. Mỗi hệ thống
bao gồm bể nuôi cá (800L), bể lắng (900L) và bể nuôi rong biển (200L), tổng thể tích của mỗi hệ
thống là 1.900L. Kết quả thu được cho thấy, với việc bổ sung rong biển như là vật liệu lọc sinh học
trong hệ thống nuôi có hiệu quả giảm thiểu đáng kể lượng ammonia thải ra từ cá. Tuy nhiên, việc
ứng dụng một cách tối ưu lượng rong biển trong hệ thống nuôi khép kín cũng như hiệu quả kinh tế
kết hợp vẫn chưa được nghiên cứu cụ thể. Ở thí nghiệm thứ hai, các mật độ rong biển khác nhau đã
được thử nghiệm để tìm ra mật độ tối ưu khi ứng dụng loại rong biển này trong hệ thống nuôi. Qua
đó, sáu mật độ rong biển đã được thử nghiệm bao gồm 12 g/L, 6 g/L, 2 g/L, 1 g/L, 0,5 g/L và nghiệm
thức đối chứng 0 g/L. Kết quả bước đầu cho thấy, với mật độ từ 6 g/L trở lên đem lại hiệu quả cao
và khác biệt có ý nghĩa so với các mật độ thấp hơn. Từ kết quả nghiên cứu này chỉ ra rằng rong
biển Ulva prolifera có thể được ứng dụng trong hệ thống tuần hoàn như là một vật liệu lọc sinh học
một cách hiệu quả, và mật độ tối ưu để áp dụng cho sự hấp thụ dinh dưỡng của rong biển là 6 g/L.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ứng dụng rong biển Ulva prolifera như là nhân tố lọc sinh học để giảm thiểu chất thải nitrogen trong hệ thống nuôi cá cam Nhật Bản (Seriolla quinqueradiata)
, C o là hàm lượng ammonia, nitrite hoặc nitrate đầu vào, C t là hàm lượng ammonia, nitrite hoặc nitrate ở thơi điểm t (h), V là thể tích bể nuôi, W là tổng trọng lượng ướt của rong biển được bổ sung (g). Tất cả các dữ liệu chỉ tiêu môi trường sau khi thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 22.0 để đánh giá sự khác biệt có nghĩa thống kê (p <0,05) về khả năng hấp thụ của rong biển đối với ammonia, nitrite hoặc nitrate. III. KẾT QUẢ 3.1. Sự biến động của hàm lượng oxy và nhiệt độ trong hệ thống nuôi Hình 2. Sự biến động của hàm lượng oxy hòa tan và nhiệt độ trong hệ thống nuôi trong suốt 24 giờ. Kết quả thu thập được cho thấy rằng nhiệt độ dao động trong ngày-đêm là từ 21,9±1,2oC và không có sự khác biệt giữa nghiệm thức và đối chứng trong suốt 24 giờ thí nghiệm. Tuy nhiên, với sự hiện diện của rong biển Ulva trong hệ thống, hàm lượng oxy dao động khác biệt một cách rõ rệt trong suốt chu kỳ ngày đêm. Cụ thể, hàm lượng oxy giảm nhanh và liên tục sau khi cá được cho ăn trong hệ thống đối chứng từ 7,3 mg/L xuống còn 6,5 mg/L trong suốt 7 giờ đầu, sau đó tăng dần trở lại. Đối với nghiệm thức có bổ sung rong biển Ulva, hàm lượng oxy trong hệ thống có giảm nhẹ sau khi cho ăn do nhu cầu sử dụng cao của cá trong 1 giờ đầu sau đó tăng nhanh trở lại do quá trình quang hợp của rong biển đã cung cấp đủ lượng oxy cần thiết cho cá. Tuy nhiên, hàm lượng oxy trong hệ thống với sự hiện diện của rong biển Ulva luôn duy trì ở mức cao hơn so với hệ thống đối chứng. 3.2. Hàm lượng ammonia, nitrite và nitrate trong hệ thống Hình 3. Sự tích lũy ammonia (a) nitrite (b) và nitrate (c) trong hệ thống sau 72 giờ thí nghiệm. Nghiệm thức Rong được biểu thị bằng (▲) và đối chứng (■). 40 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Sau 72 giờ thí nghiệm, hàm lượng ammonia tăng liên tục và không có dấu hiệu giảm trong suốt thời gian thí nghiệm khi không có sự hiện diện của rong biển Ulva trong hệ thống. Ngược lại, với sự bổ sung rong biển Ulva, hàm lượng ammonia tăng nhẹ và duy trì ở mức dưới 1 mg/L. Bên cạnh đó, kết quả đo đạt hàm lượng nitrite và nitrate cho thấy đã có sự tích lũy nhanh chóng của hai thành phần này trong hệ thống. Kết quả bước đầu cho thấy, hàm lượng nitrite và nitrate luôn thấp hơn so với nghiệm thức đối chứng. 3.3. Khả năng hấp thụ ammonia Trong điều kiện giới hạn của hệ thống thí nghiệm, mỗi thí nghiệm được lặp lại 2 lần riêng biệt để đánh giá tính khách quan của kết quả. Để so sánh sự khác biệt ý nghĩa của các mật độ rong biển, các yếu tố môi trường như oxy, pH và nhiệt độ được đo đạt. Trong suốt quá trình thí nghiệm, nhiệt độ trong các nghiệm thức được duy trì ở 26,4oC±2,4. Kết quả cho thấy, hàm lượng oxy và pH tăng cao hơn hẳn (p<0,05) trong bể nuôi khi mật độ rong biển đạt 6-12 g/L so với mật độ thấp hơn và đối chứng. Bảng 1. Hàm lượng oxy, và nhiệt độ trung bình trong bể thí nghiệm Mật độ Rong 12 g/L 6 g/L 3 g/L 1 g/L 0,5 g/L 0 g/L DO (mgl-1) Lần 1 8,2±1,0ab 7,8±0,7b 7,4±0,3bc 7,2±0,2bc 7,0±0,2c 6,8±0,3c Lần 2 8,5±0,9ab 8,0±0,5b 7,6±0,4bc 7,4±0,3bc 7,2±0,4c 7,0±0,5c pH Lần 1 7,9±0,5 ab 7,8±0,4 bc 7,4±0,3 c 7,2±0,2 cd 7,2±0,1 cd 7,2±0,1 cd Lần 2 7,7±0,4 ab 7,6±0,4 bc 7,4±0,3 c 7,3±0,2 cd 7,2±0,2 cd 7,2±0,2 cd * (n=6). Ký tự chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05). Với sự hiện diện của rong biển Ulva trong bể nuôi, hàm lượng ammonia bị hấp thụ nhanh chóng tùy thuộc vào mật độ rong biển nuôi. Cụ thể, hàm lượng ammonia giảm sau 1 đến 2 giờ làm thí nghiệm ở mật độ 6-12 g/L nhanh hơn so với các mật độ thấp và đối chứng. Sau 6 giờ thí nghiệm, kết quả cho thấy hơn 60% ammonia đã được hấp thụ khi mật độ rong biển đạt trên 6 g/L, trong khi đó, chỉ có khoảng 20% ammonia được hấp thụ ở các mật độ rong biển dưới 2 g/L. Hình 4. Kết quả đo đạt hàm lượng ammonia trong suốt 6 giờ thí nghiệm ở các mật độ tảo khác nhau. 41TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.4. Khả năng hấp thụ nitrite và nitrate Ở thí nghiệm này, môi trường dinh dưỡng được thay thế lần lượt là nitrite và nitrate ở các lần thí nghiệm riêng biệt để đánh giá khả năng hấp thụ nitrite và nitrate của rong biển Ulva. Khác với môi trường làm giàu ammonia, sự hoạt động của Ulva trong môi trường giàu nitrite hoặc nitrate dường như thấp hơn. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về sự gia tăng hàm lượng oxy và sự thay đổi pH ở cái hai thí nghiệm. Tuy nhiên, sự hấp thụ nitrite và nitrate được ghi nhận một cách rõ ràng sau 6 giờ thí nghiệm. ` Hình 5. Hàm lượng nitrite (a) và nitrate (b) trong các lô thí nghiệm với các mật độ rong khác nhau trong suốt 6 giờ làm thí nghiệm. Kết quả đo đạt hàm lượng nitrite hoặc nitrate trong bể nuôi cho thấy, nitrite và nitrate bị hấp thụ nhanh chóng sau khi bổ sung rong biển. Hiệu quả hấp thụ phụ thuộc vào mật độ rong biển nuôi. Sau 6 giờ thí nghiệm, hơn 80% nitrite đã được hấp thụ ở mật độ rong biển từ 6 g-12 g/L sau 3 giờ thí nghiệm, cao hơn hẳn những mật độ thấp hơn và đối chứng. Kết quả này thu được cũng tương tự với thử nghiệm với môi trường giàu nitrate. IV. THẢO LUẬN Trong nuôi trồng thủy sản, những yếu tố môi trường quan trọng như hàm lượng oxy hòa tan, nhiệt độ, ammonia, nitrite và nitrate có khả năng ảnh hưởng trực tiếp lên sức khỏe đối tượng nuôi đã được chứng minh từ lâu. Bằng việc kết hợp rong biển đóng vài trò như lọc sinh học trong hệ thống nuôi khép kín đã góp phần giải quyết các vấn đề khó khăn hiện nay cho nuôi trồng thủy sản nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung (Amir Neori, 2000; Brinkhuis Boudewijn, 1989). Thí nghiệm này chỉ ra rằng, cá tiêu thụ một lượng lớn oxy cao hơn bình thường sau khi cho ăn và được biết như là hoạt động chức năng đặc biệt (SDA) đã được ghi nhận trong báo cáo của Chatbot và ctv., 2016. Hàm lượng oxy trong hệ thống đối chứng đã giảm liên tục trong suốt 6 giờ sau khi cho ăn. Xu hướng giảm oxy trong hệ thống cũng được ghi nhận ở nghiệm thức bổ sung rong biển Ulva, tuy nhiên, hàm lượng oxy chỉ giảm trong vòng 1 giờ đầu sau khi cho ăn và sau đó tăng trở lại. Điều này có thể được giải thích rằng lượng oxy trong hệ thống đã bù đắp thông qua quá trình quang hợp của rong biển trong khi hệ thống đối chứng không được cung cấp đủ. Trong nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng rong biển Ulva trong hệ thống nuôi khép kín cá cam Nhật Bản bước đầu cho thấy hiệu quả trong việc giảm thiểu hàm lượng ammonia thải ra từ cá. Cụ thể, sau 72 giờ thử nghiệm liên tục, hàm lượng ammonia trong hệ thống đối chứng tăng liên tục và vượt quá ngưỡng an toàn cho cá (4 mg/L) trong khi đó với sự bổ sung rong biển trong hệ thống, hàm lượng ammonia luôn duy trì ở mức dưới 1 mg/L được xem là an toàn cho cá. Tuy nhiên, việc đo đạt kết quả hàm lượng nitrite và nitrate ở cả hai hệ thống cho thấy có sự gia tăng hai yếu tố này. Điều này đặt ra vấn đề là hoạt động 42 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II hấp thụ của rong biển và khả năng chuyển hóa ammonia của vi khuẩn chưa được rõ ràng. Do đó, theo kết quả nghiên cứu này cho thấy, cần tiến hành một nghiên cứu cụ thể về khả năng hấp thụ của loại rong đối với các nguồn dinh dưỡng nitrogen khác nhau tồn tại trong hệ thống nuôi thủy sản. Ở thí nghiệm tiếp theo, nguồn nước đã được khử trùng và lọc để loại bỏ sự hoạt động của vi khuẩn lên kết quả đo đạt. Bên cạnh đó, từng môi trường nitrogen riêng biệt đã được làm giàu để đánh giá một cách khách quan khả năng hấp thụ của rong biển Ulva. Ngoài ra, thí nghiệm được thiết lập ở những mật độ rong biển khác nhau nhằm đánh giá hiệu quả tối ưu trong việc ứng dụng rong biển trong hệ thống tuần hoàn. Kết quả thu được cho thấy, rong biển Ulva có thể hấp thụ tốt các nguồn nitrogen khác nhau từ ammonia, nitrite và nitrate. Tính toán hiệu quả hấp thụ cho thấy rong biển Ulva có thể hấp thụ từ 0,72 đến 0,83 mg NH3-N/g/giờ đối với ammonia, 0,33 đến 0,42 mg NO2-N/g/giờ và 3,90 đến 4,17 mg NO3-N/g/giờ ở những mật độ rong biển đạt 6-12 g/L cao hơn hẳn các mật độ thấp hơn và đối chứng. Một điều thú vị nữa được phát hiện trong nghiên cứu này cho thấy, trong môi trường giàu ammonia, rong biển Ulva hoạt động quang hợp tỏ ra mạnh mẽ hơn hẳn các môi trường khác và khi đạt mật độ tối ưu (6-12 g/L) đem hiệu quả cao trong việc gia tăng hàm lượng oxy và nâng cao pH cho hệ thống nuôi. V. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy khả năng hấp thụ trực tiếp các nguồn thải nitrogen như ammonia, nitrite và nitrate một cách hiệu quả của rong biển Ulva prolifera giúp đảm bảo chất lượng nước an toàn trong hệ thống nuôi khép kín cá cam Nhật bản. Ngoài ra, các yếu tố như hàm lượng oxy và pH cũng được cải thiện ổn định. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu còn cho thấy tiềm năng ứng dụng rong biển Ulva như là nhân tố lọc sinh học trong các hệ thống nuôi thủy sản khép kín, đặc biệt là kết hợp trong hệ thống tuần hoàn. Mật độ rong biển tối ưu để sử dụng là từ 6-12 g/L. TÀI LIỆU THAM KHẢO Amir Neori, David B., 2000. A sustainable integrated system for culture of fish, seaweed and abalone. Aquaculture, 186, 279–291. Brinkhuis B., Chaoyuan W., Xun-sen J., 1989. Nitrite uptake transients and consequences for in vivo algal nitrate reductase assays. Journal of Phycology, 25(3), 539-545. doi:10.1111/j.1529-8817.1989.tb00260.x Cohen Risa, F. P., 2006. Using opportunistic green macroalgae as indicators of nitrogen supply and sources to estuaries. ecological applications,16(4),1405-1420. doi:10.1890/1051-0761(2006)016[1405:uogmai ]2.0.co;2 FAO. 1992. Food and Agriculture Organization (FAO) of the united nations 56, 47. Feng Liu, Z. L. X., 2012. Growth and nutrient uptake capacity of two co-occurring species, Ulva prolifera and Ulva linza. Aquatic Botany(100), 18-24. Olsen, M. H., Yngvar Olsen. 2008. Perspectives of nutrient emission from fish aquaculture in coastal waters. Retrieved from Srithongouthai, K. T., 2017. Impacts of organic waste froma yellowtail cage farm on surface sediment and bottom water in Shido Bay (the Seto Inland Sea, Japan). Aquaculture, 471, 140-145. Steven Craig, E. S., Virginia-Maryland College of Veterinary Medicine, Virginia Tech Louis A. Helfrich, Extension, Department of Fisheries and Wildlife Sciences, Virginia Tech. 2009. Understanding Fish Nutrition, Feeds, and Feeding. 420-426. Van Rijn, J., 1996. The potential for integrated biological treatment systems in recirculating fish culture A review. Aquaculture, 139(3), 181-201. doi: https: //doi.org/10.1016/0044- 8486(95)01151-X Watanabe, F. T., S. Katsura, H., Masumder, S. A., Abe, K.Tamura, Y.Nakano. 1999. Dried green and purple lavers (Nori) contain substantial amounts of biologically active vitamin B(12) but less of dietary iodine relative to other edible seaweeds. J Agric Food Chem, 47(6), 2341-2343. 43TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II STUDY ON APPLICATION OF SEAWEED Ulva prolifera AS A BIOLOGICAL FILTER FACTOR TO REDUCE THE NITROGEN WASTE IN CULTURING YELLOW TAIL FISH (Seriolla quinqueradiata) IN THE CLOSED SYSTEM Le Ngọc Hanh1*, Toshiro Masumoto2 ABSTRACT The aquacultural industry has been developing rapidly in over the world, leading to the impact of wastewater in the environment. Considering this problem, many new aquaculture methods are being widely used to reuse water and reduce wastewater before discharge into the environment and thereby to solve the problem of nitrogen accumulation in the water environment. One of the evaluated solutions that can create a lot of potential in aquaculture is the polyculture with seaweed or algae species. Ulva prolifera (O.F. Muller, 1778) is reported to be able to grow aggressively in a eutrophic environment and is capable of effectively absorbing the nutrients accumulated in the water. In this study, Ulva prolifera were used as a biological filter material combined with the closed quaculture systems to reduce ammonia. To achieve this goal, two continuous experiments were carried out. In the first study, two closed aquaculture systems (CAS) in a pilot-scale were established for comparison. Each system includes a fish tank (800L), a sedimentation tank (900L) and an seaweed tank (200L). The total volume of each system is 1900L. The results showed that the addition of seaweed as a biofilter in RAS effectively reduced the amount of ammonia released from the fish. However, the optimum application of seaweed in CAS as well as the combined economic effect, have not been specifically investigated. In the second experiment, algal densities were altered to find the optimum density when applying this seaweed species in CAS. As a result, six seaweed densities were tested including 12g/L, 6g/L, 2g/L, 1g/L, 0.5g/L and control 0g/L. The primary results showed that the density of 6g/L gave high efficiency and the significant difference comparing with other densities. The results of this study indicate that Ulva prolifera can be applied in the aquaculture system as an effective biological filter material, and 6g/L is the optimal density to apply for the nutrient uptake. Keywords: intergrated system, recirculating aquaculture system, Ulva prolifera. Người phản biện: TS. Nguyễn Nhứt Ngày nhận bài: 18/12/2018 Ngày thông qua phản biện: 27/12/2018 Ngày duyệt đăng: 31/12/2018 1 Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No.2 2 Fish nutrient Lab, Kochi university, Japan. * Email: ngochanhts@gmail.com
File đính kèm:
- nghien_cuu_ung_dung_rong_bien_ulva_prolifera_nhu_la_nhan_to.pdf