Kết quả ương cá hô từ giai đoạn cá bột lên cá hương 10 và 20 ngày tuổi với thức ăn và mật độ khác nhau
TÓM TẮT
Nghiên cứu ương cá hô (Catlocarpio siamensis) bột sử dụng hai loại thức ăn (Moina và Artemia +
Moina) và ba mật độ ương (200, 400 và 600 cá/m2) trong 20 ngày. Artemia được sử dụng kết hợp
với Moina trong 3 ngày đầu. Việc bổ sung Artemia với mật độ 1 con/ml trong 3 ngày ương đầu cho
thấy có hiệu quả ở mật độ 400 và 600 con/m2. Đối với khối lượng cá bột ở thời điểm 10 ngày tuổi,
ảnh hưởng của hai loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia) (P<0,05) và="" ba="" mật="" độ="" ương="" (200,="">0,05)>
và 600 con/m2) (P<0,01) đều="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê,="" cho="" thấy="" có="" sự="" khác="" biệt="" về="" khối="" lượng="" cá="">0,01)>
hai loại thức ăn và giữa ba mật độ. Tương tác giữa thức ăn và mật độ cũng rất có ý nghĩa thống kê
(P<0,001). đối="" với="" khối="" lượng="" cá="" bột="" ở="" thời="" điểm="" 20="" ngày="" tuổi,="" ảnh="" hưởng="" của="" mật="" độ="">0,001).><>
và tương tác giữa mật độ×thức ăn là có ý nghĩa thống kê (P=0,011), nhưng ảnh hưởng của thức
ăn riêng rẽ thì không có ý nghĩa thống kê (P=0,356) (Bảng 5). Đối với tỉ lệ sống ở thời điểm 20
ngày tuổi (có chuyển đổi arcsin và không chuyển đổi), ảnh hưởng của mật độ có ý nghĩa thống kê
(P=0,0054 cho mô hình tuyến tính và P=0,0023 cho mô hình hồi quy logistic) trong khi ảnh hưởng
của thức ăn không có ý nghĩa thống kê (P=0,2046 cho mô hình tuyến tính và P=0,7831 cho mô
hình hồi quy logistic).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả ương cá hô từ giai đoạn cá bột lên cá hương 10 và 20 ngày tuổi với thức ăn và mật độ khác nhau
c thực hiện từ tháng 03/2013 đến tháng 08/2014 tại Trung tâm Quốc gia giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ, trực thuộc Viện nghiên Cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. 2.2. Bố trí thí nghiệm Có 2 nghiệm thức, được đặt tên là (1) Moina và (2) Moina+Artemia. Đối với nghiệm thức Moina, trong 10 ngày đầu tiên, cho cá ăn Moina (mật độ 3 con/ml nước) và thức ăn bột 40% đạm (5 g/m3 nước). Đối với nghiệm thức Moina+Artemia, trong 3 ngày đầu cho ăn Moina (2 con/ml) + Artemia (1 con/ml); từ ngày 4–10 cho ăn Moina (2 con/ml) + thức ăn bột (5 g/ m3). Cho cả 2 nghiệm thức, từ ngày 11–20 cho ăn thức ăn mảnh 40% đạm (10 g/m3) (Bảng 1). Tương ứng với 1 loại thức ăn và 1 mật độ thì có 3 bể ương (24 m3), tức là, một tổ hợp (thức ăn×mật độ) được lặp lại 3 lần. Bảng 1. Loại và lượng thức ăn trong 20 ngày ương. Loại thức ăn Ngày ương 1 – 3 4 – 10 11 – 20 Moina Moina (3 con/ml), bột (5 g/m3) Moina (3 con/ml), bột (5 g/m3) Mảnh (10 g/m3) Moina+Artemia Moina (2 con/ml),Artemia (1 con/ml) Moina (2 con/ml), bột (5 g/m3) Mảnh (10 g/m3) Ghi chú: bột và mảnh là thức ăn công nghiệp với 40% đạm. 2.3. Thu thập và xử lý số liệu Các chỉ tiêu nhiệt độ, pH và DO được đo hàng ngày (6 giờ sáng và 2 giờ chiều), NH3-N và NO2-N một lần/tuần (6 giờ sáng và 2 giờ chiều). Xác định khối lượng thân ở ngày ương thứ 10 và 20. Số liệu được quản lý và kiểm tra bằng phần mềm Microsoft Excel® 2010, sau đó được phân tích bằng phần mềm R phiên bản 3.0.3 (R Core Team, 2012). Đối với khối lượng cá ở ngày tuổi thứ 10 và 20, ảnh hưởng của hai loại thức ăn (Moina và Moina + Artemia) và ba mật độ ương (200, 400, 600 con/m2) được đánh giá bằng phương trình tuyến tính 50 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Khối lượngijk = m + thức ăni + mật độj + (thức ăn × mật độ)k + eijk (Mô hình 1) Nhiệt độ sáng và chiều của bể ương gần tương đương nhau, dao động trong khoảng từ 29,2–31,5°C, chênh lệch nhiệt độ trong ngày khoảng 2°C. Nồng độ oxy hòa tan nằm trong khoảng thích hợp (> 4). Tuy nhiên, nồng độ tối ưu cho ương cá chép được khuyến cáo nên trên 5 mg/l (Laszlo và ctv., 2005). Nồng độ NO2 và NH3 tổng số ở mức thấp và ít có biến động trong ngày, lần lượt là 0,0 và 0,2 mg/l nằm trong khoảng tối ưu cho cá. 3.2. Khối lượng cá và tỉ lệ sống khi ương bằng hai loại thức ăn và ba mật độ ương Khối lượng trung bình của cá 10 ngày tuổi khi ương bằng 2 loại thức ăn ở 3 mật độ được trình bày trong Bảng 3. Ảnh hưởng của cả thức ăn (Moina và Moina+Artemia) (P<0,05) và mật độ (200, 400 và 600 con/m2) (P<0,01) đều có ý nghĩa thống kê, cho thấy có sự khác biệt về khối lượng cá giữa hai loại thức ăn và giữa ba mật độ. Thức ăn Moina+Artemia cho kết quả (khối lượng cá 10 ngày tuổi) tốt hơn Moina (p = 0,012). Mật độ ương 200 cho kết quả tăng trưởng tốt hơn so với 2 mật độ ương còn lại là 400 và 600 con/m2 (p < 0,0001); và mật độ ương 400 cũng tốt hơn so với ương ở 600/m2 (p = 0,0003). trong đó khối lượngi là khối lượng của cá thể k tại thời điểm 10 và 20 ngày tuổi, m là trung bình của quần thể, thức ăni là ảnh hưởng 2 loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia), mật độj là ảnh hưởng của 3 mật độ ương (200, 400, 600 con/ m2), (thức ăn × mật độ)k là tương tác giữa hai loại thức ăn và mật độ ương, và eijk là số dư. Tỉ lệ sống sau 20 ngày ương được phân tích theo hai cách. Cách thứ nhất, tỉ lệ sống được chuyển đổi thành arcsin và được phân tích bằng mô hình tuyến tính thông thường như sau: Tỉ lệ sốngij = m + thức ăni + mật độj + eij (Mô hình 2) trong đó là tỉ lệ sốngijk của từng tổ hợp (thức ăn×mật độ) ương tại thời điểm 20 ngày tuổi, m là trung bình của quần thể, thức ăni là ảnh hưởng hai loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia), mật độj là ảnh hưởng của 3 mật độ ương (200, 400, 600 con/m2). Cách thứ hai là tỉ lệ sống (không chuyển đổi) được phân tích bằng phương trình hồi quy logistic: Log(odd ratio)ij = m + thức ăni + mật độj + eij (Mô hình 3) trong đó log(odd ratio)ij là log(khả năng sống sót) của từng tổ hợp (thức ăn×mật độ) ương k tại thời điểm 20 ngày tuổi, các ảnh hưởng khác tương tự như Mô hình 2. Cho cả 3 mô hình thì ảnh hưởng của thức ăn, mật độ hoặc tương tác (thức ăn×mật độ) được xác định bằng Type III Sum of Square. Nếu ảnh hưởng nào có ý nghĩa thống kê (P<0,05) thì sự khác biệt giữa từng nhóm được thực hiện bằng cách so sánh cặp, sử dụng package ‘multcomp’ (Hothorn và ctv, 2008) với phương pháp hiệu chỉnh Tukey ở mức độ tin cậy 95%. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Các yếu tố môi trường Bảng 2. Các yếu tố môi trường trên bể ương. Nhiệt độ pH DO (mg/l) NH3-N (mg/l) NO2-N (mg/l) Sáng 29,2±0,1 7,6±0,3 4,2±0,1 0,0 0,0 Chiều 31,5±1,2 8,1±0,3 6,3±0,1 0,0 0,0 51TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Bảng 3. Trung bình (± độ lệch chuẩn) của khối lượng cá 10 ngày tuổi (g) khi ương bằng hai loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia) ở ba mật độ ương (200, 400 và 600 con/m2). Mật độ (con/m2) Thức ăn 200 400 600 Moina 0,06 ± 0,03 0,03 ± 0,01 0,03 ± 0,01 Artemia+Moina 0,05 ± 0,02 0,04 ± 0,01 0,03 ± 0,01 Ngoài ra, tương tác giữa thức ăn và mật độ cũng rất có ý nghĩa thống kê (P<0,001). Sự tương tác thức ăn×mật độ được minh họa trong Hình 1. Ở mật độ 200 con/m2 thì khối lượng trung bình cá bột nuôi bằng Moina lớn hơn so với cá nuôi bằng Moina+Artemia, nhưng ở mật độ 400 và 600 thì ngược lại (Hình 1). Hình 1. Ảnh hưởng tương tác giữa hai loại thức ăn (Mo = Moina, ArMo = Moina+Artemia) và ba mật độ (200, 400, 600 con/m2) lên khối lượng cá 10 ngày tuổi. Mức độ ý nghĩa của sự khác biệt (đánh giá bằng giá trị P) giữa các đơn vị thí nghiệm (các cặp thức ăn – mật độ) được trình bày trong Bảng 4. Ngoại trừ các cặp (Moina, 200 con/m2) với (Moina+Artemia, 200); (Moina+Artemia, 600) với (Moina, 400) và (Moina, 600), thì sự khác biệt giữa các cặp còn lại đều rất có ý nghĩa thống kê (Bảng 4). 52 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Bảng 4. Giá trị P của sự khác biệt về khối lượng cá 10 ngày tuổi giữa hai loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia) và ba mật độ ương (200, 400 và 600 con/m2). Moina, 200 Moina, 400 Moina, 600 Artemia+Moina, 200 Artemia+Moina, 400 Artemia+Moina, 600 Moina, 200 <0,0001 <0,0001 0,1181 <0,0001 <0,0001 Moina, 400 0,4788 <0,0001 0,0029 1,0000 Moina, 600 <0,0001 <0,0001 0,5334 Artemia+Moina, 200 0,0002 <0,0001 Artemia+Moina, 400 0,0021 Artemia+Moina 600 Khối lượng trung bình của cá 20 ngày tuổi khi ương bằng hai loại thức ăn ở ba mật độ được trình bày trong Bảng 5. Lúc này, ảnh hưởng của mật độ (P<0,001) và tương tác giữa mật độ×thức ăn là có ý nghĩa thống kê (P=0,011), nhưng ảnh hưởng của thức ăn riêng rẽ thì không có ý nghĩa thống kê (P=0,356) (Bảng 5). Sự tương tác giữa mật độ×thức ăn được minh họa trong Hình 2. Bảng 5. Trung bình (± độ lệch chuẩn) của khối lượng cá 20 ngày tuổi (g) khi ương bằng hai loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia) ở ba mật độ ương (200, 400 và 600 con/m2). Mật độ (con/m2) Thức ăn 200 400 600 Moina 0,09 ± 0,05 0,05 ± 0,02 0,04 ± 0,02 Artemia+Moina 0,08 ± 0,04 0,06 ± 0,03 0,04 ± 0,02 Hình 2. Ảnh hưởng tương tác giữa hai loại thức ăn (Mo = Moina, ArMo = Moina+Artemia) và ba mật độ (200, 400, 600 con/m2) lên khối lượng cá 20 ngày tuổi. 53TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Tỉ lệ sống của từng tổ hợp (thức ăn×mật độ) ương được trình bày trong Bảng 6. Đối với Mô hình 2 (tỉ lệ sống được chuyển đổi arcsin), chỉ có ảnh hưởng của mật độ là có ý nghĩa thống kê (P=0,0054), còn ảnh hưởng của thức ăn là không có ý nghĩa (P=0,2046). Đối với Mô hình 3 (mô hình hồi quy logistic), kết quả cũng tương tự: ảnh hưởng của mật độ có ý nghĩa thống kê (P=0,0023) trong khi ảnh hưởng của thức ăn không có ý nghĩa (P=0,7831). Ảnh hưởng của tương tác thức ăn×mật độ là không có ý nghĩa thống kê, nên đã được loại bỏ khỏi Mô hình 2 và 3 (kết quả không trình bày). Bảng 6. Tỉ lệ sống (%±độ lệch chuẩn) của cá ương bằng hai loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia) ở ba mật độ (200, 400 và 600 con/m2). Mật độ (con/m2) Thức ăn 200 400 600 Moina 68,1 ± 10,3 73,2 ± 8,5 63,6 ± 9,9 Artemia+Moina 88,3 ± 7,3 80,1 ± 8,5 76,6 ± 6,6 IV. THẢO LUẬN Hiện chưa có công bố nào về các chỉ tiêu chất lượng nước tối ưu cho ương cá hô. Nhiệt độ thích hợp cho ấp trứng nở là từ 28–29°C đã được báo cáo bởi Nukulluk và Tangtrongpiros (1975) (trích bởi Mattson và ctv., 2002). Đối với nhiều loài cá chép, nhiệt độ ghi nhận phát triển tốt nhất là trên 20°C (Laszlo, 2002). Cũng theo Laszlo (2005) ngưỡng pH tối ưu cho ương nuôi các loài cá chép là từ 7,0 – 8,5, nồng độ NO2 tối ưu < 0,5 mg/l, NH3-N < 2,0 mg/l, nồng độ oxy hòa tan từ 5 – 12 mg/l khi ương giống và từ 3 – 4 g/l khi nuôi trong ao. Việc thay thế Artemia với mật độ 1 con/ml trong 3 ngày ương đầu cho thấy có hiệu quả ở mật độ 400 và 600 con/m2, tuy chưa mang lại hiệu quả như mong muốn ở mật độ 200 con/m2. Điều này được thể hiện qua ảnh hưởng của thức ăn là có ý nghĩa đối với khối lượng cá 10 ngày tuổi (P<0,05), nhưng không có ý nghĩa đối với khối lượng cá 20 ngày tuổi (P=0,356). Ngược lại, mật độ có ảnh hưởng đến khối lượng của cá ở cả hai thời điểm 10 và 20 ngày tuổi, tức là, mật độ càng thấp thì tăng trưởng càng tốt. Tương tác giữa thức ăn và mật độ là rất có ý nghĩa lên tăng trưởng ở cả hai thời điểm 10 và 20 ngày tuổi. Artemia có khả năng sống trong môi trường nước ngọt kém, sẽ chết sau khoảng 1 giờ nên có thể cho rằng thức ăn đóng vai trò chủ đạo vẫn là Moina, điều này có thể giải thích ở mật độ 200, nghiệm thức cho ăn Artemia + Moina cho tăng trưởng kém hơn chỉ cho ăn Moina. Tuy nhiên, ở mật độ cá cao hơn (400 và 600 con/m2), lượng Artemia bổ sung có lẽ đã được cá sử dụng tốt nên tăng trưởng của cá ương ở hai mật độ này ở 10 và 20 ngày tuổi đều cao hơn khi chỉ có Moina. Tuy mật độ ương là khác nhau nhưng lượng thức ăn ban đầu là như nhau (vì tính cho đơn vị thể tích nước chứ không tính cho số lượng cá) nên cá thả ở mật độ thưa hơn sẽ có nhiều thức ăn hơn. Điều này giải thích cho vì sao cá nuôi thưa lại có tốc độ tăng trưởng tốt hơn cá nuôi dày. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Việc thay thế Artemia với mật độ 1 con/ml trong 3 ngày ương đầu cho thấy có hiệu quả ở mật độ 400 và 600 con/m2, tuy chưa mang lại hiệu quả như mong muốn ở mật độ 200 con/m2. Đối với khối lượng cá bột ở thời điểm 10 ngày tuổi, ảnh hưởng của hai loại thức ăn (Moina và Moina+Artemia) (P<0,05) và ba mật độ ương (200, 400 và 600 con/m2) (P<0,01) đều có ý nghĩa thống kê, cho thấy có sự khác biệt về khối lượng cá giữa hai loại thức ăn và giữa ba mật độ. Tương tác giữa thức ăn và mật độ cũng rất có ý nghĩa thống kê (P<0,001). 54 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Đối với khối lượng cá bột ở thời điểm 20 ngày tuổi, ảnh hưởng của mật độ (P<0,001) và tương tác giữa mật độ×thức ăn là có ý nghĩa thống kê (P=0,011), nhưng ảnh hưởng của thức ăn riêng rẽ thì không có ý nghĩa thống kê (P=0,356) (Bảng 5). Đối với tỉ lệ sống ở thời điểm 20 ngày tuổi (có chuyển đổi arcsin và không chuyển đổi), ảnh hưởng của mật độ có ý nghĩa thống kê (P=0,0054 cho mô hình tuyến tính và P=0,0023 cho mô hình hồi quy logistic) trong khi ảnh hưởng của thức ăn không có ý nghĩa thống kê (P=0,2046 cho mô hình tuyến tính và P=0,7831 cho mô hình hồi quy logistic). 5.2. Đề xuất Khuyến cáo chỉ cần sử dụng Moina để ương cá hô với mật độ khoảng 200 con/m2 trên bể. Nếu mật độ cao hơn nên bổ sung thêm Artemia trong ít nhất 3 ngày ương đầu tiên. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Huỳnh Hữu Ngãi, Phạm Văn Khánh, Thi Thanh Vinh, Đặng Văn Trường, Hà Thị Ngọc Nga, Đinh Văn Chơn, Nguyễn Thanh Nhân, Trịnh Quốc Trọng, Nguyễn Thành Kim, 2009. Thuần dưỡng, tái tạo và phát triển nguồn gien cá hô. Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long, trang 198-207. Tài liệu tiếng Anh Evangelista, A. D., Fortes, N. R., and Santiago, C. B., 2005. Comparison of some live organisms and artificial diet as feed for Asian catfish Clarias macrocephalus (Gunther) larvae. J. Appl. Ichthyol. 21: 437–433. Hothorn, T., Bretz, F. and Westfall, P., 2008. Simultaneous Inference in General Parametric Models. Biometrical Journal 50 (3), 346-363. Laszlo Horvath, Gizella Tamas and Chris Seagrave, 2002. Carp and pond fish culture. Blackwell Publishing, 185 pp. Mattson, Niklas S., Kongpheng Buakhamvongsa, Naruepon Sukumasavin, Nguyen Tuan, and Ouk Vibol, 2002. Cambodia Mekong giant fish species: on their management and biology. MRC Technical Paper No. 3, Mekong River Commission, Phnom Penh. pp. 29. ISSN: 1683-1489. Sukumasavin, N., 1996. Induced spawning of giant carp, Catlocarpio siamensis, from the brood stock permanently reared in earthen pond. Thai Fisheries Gazette, 1996. 49 (1): 23-26. 55TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 NURSING RESULTS OF CATLOCARPIO SIAMENSIS FROM THE FRY STAGE TO 10 AND 20 DAYS OLD WITH DIFFERENT FEED AND STOCKING DENSITY Dang Van Truong1*, Trinh Quoc Trong1, Nguyen Van Hiep1, Nguyen Thanh Vu1, Pham Cu Thien2 ABSTRACT Research on nursing of Catlocarpio siamensis fry by using Moina and Artemia + Moina with three different nursing densities of 200, 400 and 600 fries/m2 in 20 days. Artemia was used with Moina in the first three days. The supplement of 1 Artemia/ml in the first 3 days of nursing showed the positive results in the treatments with 400 and 600 fries/m2. The weight of 10-day-old fry was sig- nificantly different between two kinds of feed (Moina and Moina+Artemia) (P<0.05) and among 3 nursing densities (200, 400 and 600 fries/m2) (P<0.01). The interaction between feed and density also had significant difference (P<0.001). For the weight of 20-day-old fry, the impact of density (P<0.001) and the interaction between density x feed were significantly different (P=0.011), but there was no significant in feed (P=0.356). The survival rate of 20-day nursing (with and without transfer data into arcsin) was significantly different from the 3 densities when applying logistic regression analysis (P=0,0023) while there was no siginficantly different for the feed treatment (P>0.05). Keywords: Catlocarpio siamensis, Moina, Artemia, nursing density. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Hảo Ngày nhận bài: 10/8/2014 Ngày thông qua phản biện: 28/8/2014 Ngày duyệt đăng: 05/9/2014 1 National Breeding Center for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No.2. 2 Research Institute for Aquaculture No.2. * Email: truongria2@gmail.com
File đính kèm:
- ket_qua_uong_ca_ho_tu_giai_doan_ca_bot_len_ca_huong_10_va_20.pdf