Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long
TÓM TẮT
Nghiên cứu đã thực hiện 2 nghiệm thức (NT) ương cá tra từ giai đoạn bột lên hương với thời gian
ương 21 ngày, mỗi NT thực hiện 6 ao, mỗi ao có diện tích từ 3.500 đến 3.700 m2, địa điểm tại huyện
Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Mật độ thả bột 750 con/m2 và tất cả các yếu tố kỹ thuật ương của 2 NT
đều như nhau, chỉ khác nhau ở NT 1 có cung cấp thổi khí và NT 2 thì không. Hệ thống thổi khí được
thiết kế với lượng khí thổi ra từ các đĩa hình tròn, hoạt động qua máy thổi khí và khoảng cách lắp
đặt được tính toán nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng. Kết quả ghi nhận lượng Moina sp. trong ao giai
đoạn 12 ngày đầu ở NT 1 cao hơn ở NT 2, sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05);="" và="" lượng="">
sp. ở cả hai NT đạt cao nhất ở ngày 3 và giảm dần đến ngày 12. Tăng trưởng chiều dài của cá NT
1 có kết quả tốt hơn NT 2, cá bột khi mới thả có chiều dài trung bình từ 5,85 đến 6,30 mm, sau 21
ngày, chiều dài cá đạt 27,7 mm (NT 2) và 37,0 mm (NT 1), sai khác có ý nghĩa thống kê p<>
Các yếu tố thủy lý hóa như nhiệt độ nước, pH, độ kiềm, NH3-N, NO2-N, NO3-N và COD của nước
ao ở 2 NT đều nằm trong giới hạn thích hợp cho sự phát triển của cá; riêng hàm lượng oxy hòa tan
(DO) sáng ở NT 2 thấp hơn NT 1 và thấp hơn ngưỡng thích hợp cho cá phát triển, DO sáng ở NT 2
dao động từ 2,95 đến 4,80 mg/l, ở NT 1 dao động từ 4,6 đến 6,25 mg/l, sai khác có ý nghĩa thống
kê (p<0,05), trừ="" các="" ngày="" ương="" thứ="" 5,="" 6="" và="" 16.="" cá="" nuôi="" ở="" nt="" 1="" có="" tần="" suất="" và="" tỷ="" lệ="" nhiễm="" trùng="">0,05),>
xe (Trichodina sp.) và tần suất nhiễm vi khuẩn A. hydrophyla thấp hơn cá nuôi ở NT 2, sai khác có
ý nghĩa thống kê (p<0,05); cường="" độ="" nhiễm="" trichodina="" sp.="" của="" cá="" ở="" nt="" 1="" ở="" mức="" (+),="" trong="" khi="">0,05);>
NT 2 nhiễm cả hai mức (+) và (++). Tỷ lệ sống trung bình của cá ở NT 1 (37,17%) cao hơn NT 2
(22,82%), sai khác có ý nghĩa thống kê p <0,05 và="" chỉ="" số="" fcr="" dao="" động="" từ="" 0,36="" đến="">0,05>
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của việc sử dụng hệ thống thổi khí trong ương cá tra từ bột lên hương ở đồng bằng sông Cửu Long
Trong quá trình ương cá tra từ giai đoạn bột lên hương trải qua 21 ngày với mật độ thả bột là 750 con/m2, chúng tôi đã thực hiện gây nuôi thức ăn tự nhiên (Moina sp.) trực tiếp trong ao với mục đích là bổ sung nguồn thức ăn đủ dinh dưỡng và được cá tra bột ưa thích trong giai đoạn 12 ngày đầu. Nguồn thức ăn tự nhiên này là một trong những yếu tố có tính chất quyết định đến tỷ lệ sống và tình trạng sức khỏe cá nuôi trong giai đoạn này. Trong quá trình ương cá trê giống (Clarias macrocephalus), Fermin và Bolivar (1991) đã sử dụng Moina sp. là nguồn thức ăn chính trong giai đoạn đầu và cho tỷ lệ sống cao; trường hợp tương tự được ghi nhận trong ương cá măng (Chanos chanos) của Watanabe và Fujita, 1983. Nghiên cứu của Hung và ctv., (2002) đã chứng minh Artemia, Moina sp. và trùn chỉ (Tubifex) là những thức ăn phù hợp trong ương nuôi cá tra giống (P. hypophthalmus) và cá basa giống (P. bocourti) với kết quả tỷ lệ sống đạt được dao động từ 91,0% đến 93,0%. Kết quả trong nghiên cứu này đã chỉ ra lượng Moina sp. trong ao tăng cao ở ngày thứ 3 và giảm dần đến hết ngày 12 và lượng Moina sp. này cao ở nghiệm thức có thổi khí so với nghiệm thức không thổi khí, sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), trừ các ngày thứ 1, 4, 5 và 12. Như vậy, việc cung cấp hệ thống thổi khí đã góp phần trong việc tăng sinh khối Moina sp. trong ao; và thực tế cho thấy rằng, với hệ thống thổi khí hoạt động 24 giờ ở ngày ương 1, 2; hoạt động 6 giờ/ngày từ 4 đến 10 giờ sáng ở ngày ương thứ 3 trở đi và hoạt động khi điều kiện thời tiết bất lợi đã góp phần trong việc cung cấp thêm oxy hòa tan cho sự hô hấp của cá tra bột và Moina sp.; mặt khác còn giúp khoáng hóa môi trường nước ao nhằm tăng hiệu quả khi sử dụng các sản phẩm như chất xử lý diệt khuẩn, các chế phẩm vi sinh, v.v... Kết quả của nghiên cứu đã chứng minh có sự khác nhau giữa hàm lượng oxy hòa tan (DO) của nước ao vào buổi sáng ở 2 nghiệm thức có và không có thổi khí; đối với nghiệm thức không thổi khí thì DO sáng rơi xuống ở mức nhỏ hơn 3 mg/l trong nhiều ngày; còn đối với nhóm có thổi khí, giá trị DO luôn cao hơn 4mg/l và dao động từ 4,5 đến 6,5 mg/l. Trong quá trình ương cá tra, một trong những vấn đề đáng lo ngại là lượng oxy hòa tan trong nước ao thấp 107TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 vào buổi sáng (khoảng từ 4-6 giờ), điều này là do ảnh hưởng của quá trình quang hợp và quá trình hô hấp nên lượng oxy hòa tan trong nước ao thường cao nhất vào cuối buổi chiều và thấp nhất sau nửa đêm lúc đầu giờ của buổi sáng. Với chỉ số DO từ 1,4 đến 5,0 mg/l thì cá tồn tại, nhưng giảm ăn, tăng trưởng chậm và dễ nhạy cảm với bệnh tật. Với DO ở mức từ 4 mg/l đến độ bảo hòa thì là mức thích hợp cho ấu trùng, cá con và cá giống của cá da trơn. Vì vậy, giá trị DO sáng ở nhóm không cung cấp thổi khí ở mức nhỏ hơn 3 mg/l và kéo dài trong nhiều ngày đã gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển và tình trạng sức khỏe cá nuôi. Thật vậy, diễn biến tăng trưởng về chiều dài cá đã thể hiện sự chênh lệch giữa 2 nghiệm thức có và không có thổi khí; chiều dài cá sau khi thả 1 tuần đến ngày thứ 21 ở nghiệm thức có thổi khí luôn lớn hơn ở nghiệm thức không thổi khí, sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Khi ao ương được trang bị hệ thống thổi khí, hoạt động của hệ thống này ngoài việc cung cấp lượng oxy hòa tan trong ao, làm khoáng hóa và giúp phân tán đều khi sử dụng các chế phẩm xử lý ao nuôi hoặc chế phẩm vi sinh, v.v... chúng còn trực tiếp hoặc gián tiếp giúp giảm thiểu bệnh tật xảy ra. Kết quả nghiên cứu này đã cho thấy tần suất nhiễm và tỷ lệ nhiễm trùng bánh xe (Trichodina sp.) và tần xuất nhiễm vi khuẩn A. hydrophyla ở nghiệm thức có thổi khí thấp hơn ở nghiệm thức không thổi khí (sai khác có ý nghĩa thống kê p < 0,05). Cường độ nhiễm trùng bánh xe (Trichodina sp.) ở nghiệm thức có thổi khí ở mức (+), trong khi ở nghiệm thức không thổi khí có hai mức (+) và (++), theo Bùi Quang Tề (2008) thì cường độ nhiễm Trichodina sp. từ 20 đến 30 trùng/ thị trường (tương ứng mức ++) với độ phóng đại 10 X đã gây nguy hiểm cho cá. Một điều khá quan trọng khi nói đến sự thành công của vụ nuôi là kết quả tỷ lệ sống, tỷ lệ sống của cá ở 2 nghiệm thức có và không có thổi khí đều lớn hơn 22,0%, kết quả này đã đánh dấu sự thành công bước đầu của nghiên cứu này; thực tế hiện tại ở một số nông hộ tại Đồng Tháp nói riêng và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung khi ương với mật độ thả bột cùng với mật độ thả bột trong nghiên cứu này (750 con/ m2), kết quả chỉ đạt tỷ lệ sống trung bình nhỏ hơn 15,0 %. Khi so sánh tỷ lệ sống của cá ở nghiệm thức có và không có thổi khí thì tỷ lệ sống của cá ở nghiệm thức có thổi khí (37,17% ± 5,89) lớn hơn ở nghiệm thức không thổi khí (22,82% ± 3,70), sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) cùng với hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) của 2 nghiệm thức là 0,36 (± 0,04) và 0,39 (± 0,07). Yang và Lin (2001) đã đạt được tỷ lệ sống tốt và tăng cao về sản lượng của cá rô phi nuôi bè ở nghiệm thức có cung cấp thổi khí so với nghiệm thức không cung cấp thổi khí, sai khác có ý nghĩa thống kê p < 0,05. Trong nghiên cứu này, rõ ràng rằng, việc cung cấp thổi khí đã có nhiều tác động tốt đến đời sống của cá và môi trường nước của ao ương. Có thể cho rằng, việc làm này là không mới và thực tế các nông hộ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang áp dụng, tuy nhiên, không phải tất cả đều thành công. Trong nghiên cứu này, một vài điểm quan trọng mà chúng tôi đã thực hiện là sự tính toán khi thiết kế lắp đặt hệ thống thổi khí. Hệ thống thổi khí được thiết kế giúp lượng khí thổi ra từ các đĩa khí xoay tròn và được đặt cách đáy từ 20 đến 30 cm đã giúp phân phối đều lượng khí từ dưới lên trên. Với cách thiết kế có sự tính toán khoảng cách khí tỏa ra với bán kính 2 m, đều nhau đã giúp lượng khí được cung cấp đến mọi hướng trong ao. Bên cạnh đó, thổi khí theo đúng kế hoạch và linh hoạt thổi khí khi gặp sự cố bất thường khi điều kiện thời tiết xấu, v.v... đã được thực hiện nghiêm túc, cũng đã góp phần làm ổn định lượng khí trong ao ở mọi thời điểm, hạn chế cá bị sốc khi gặp sự thay đổi đột ngột do các 108 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 điều kiện ngoại cảnh. Việc tính toán thời gian và thời điểm thổi khí để đáp ứng đúng và đủ nhu cầu cần thiết cho cá mà không làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế cũng được đặt lên hàng đầu. Điều quan trọng sau cùng là sự kết hợp hài hòa và hợp lý của nhiều yếu tố kỹ thuật đã được cải tiến, trong đó có kỹ thuật cung cấp hệ thống thổi khí, cùng với việc giám sát diễn biến các yếu tố thủy lý hóa môi trường nước ao và giám sát tình trạng sức khỏe cá nuôi nhằm có biện pháp can thiệp hợp lý và kịp thời. Tất cả những việc trên đã giúp chúng tôi gặt hái được những kết quả nhất định. V. KẾT LUẬN Khi ương cá tra với mật độ 750 con/m2 từ giai đoạn bột lên hương (21 ngày), việc cung cấp thổi khí đã có những đóng góp trong việc tăng sinh khối Moina sp. trong ao giai đoạn 12 ngày đầu. Lượng Moina sp. trong ao ở nghiệm thức có thổi khí luôn cao hơn ở nghiệm thức không thổi khí và sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), trừ các ngày thứ 1, 4, 5 và 12. Với hoạt động của hệ thống thổi khí 24 giờ ở ngày ương 1 và 2; 6 giờ (từ 4 đến 10 giờ sáng) từ ngày ương thứ 3 trở đi và thổi khí khi gặp điều kiện thời tiết xấu đã giúp hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước ao nuôi duy trì ở mức ổn định (dao động ở mức > 4 mg/l đến 7 mg/l). Chiều dài cá sau khi thả 1 tuần đến ngày thứ 21 ở NT có thổi khí luôn cao hơn NT không thổi khí, sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tần suất và tỷ lệ nhiễm trùng bánh xe (Trichodina sp.) và tần suất nhiễm vi khuẩn A. hydrophyla ở nghiệm thức có thổi khí luôn thấp hơn ở nghiệm thức không thổi khí, sai khác có ý nghĩa thống kê p < 0,05. Cường độ nhiễm trùng bánh xe (Trichodina sp.) ở nghiệm thức có thổi khí là (+), ở nghiệm thức không thổi khí có hai mức (+) và (++). Tỷ lệ sống trung bình của cá ở nghiệm thức có thổi khí (37,17 %) cao hơn ở nghiệm thức không thổi khí (22,82 %), sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) với hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) của 2 nghiệm thức là 0,36 và 0,39. 109TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Phạm Quốc Nguyên, Lê Hồng Y, Nguyễn Văn Công và Trương Quốc Phú, 2014. Diễn biến một số chỉ tiêu chất lượng nước trong ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypopthalmus) thâm canh. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Trương Quốc Phú, 2000. Giáo trình phân tích chất lượng nước và quản lý môi trường ao nuôi. 39 trang. Trương Quốc Phú và Vũ Ngọc Út, 2006. Bài giảng Quản lý chất lượng nước. Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Bùi Quang Tề, 2008. Bệnh truyền nhiễm của động vật thủy sản. p. 122-128. Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành, 1994. Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Sở Khoa học Công nghệ Môi trường An Giang. 266 trang. Dương Thúy Yên, 2003. Khảo sát một số tính trạng, hình thái, sinh trưởng và sinh lý của cá basa (P.bocourti), cá tra (P.hypophthalmus) và con lai của chúng. Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy sản. Trường Đại học Cần Thơ. Tài liệu tiếng Anh Boyd, C. E., 1998. Water quality for pond aquaculture. Resarch and development series. No.43. International center for aquaculture and aquatic environtments Alabama quaculture experient station Auburn University. Boyd, C. E., and Tucker, C. S., 1992. Water Quality and Pond Soil Analyses for Aquaculture. Alabama Agricultural Experiment Station, Auburn University, Alabama, 183 pp Clescerl, L. S., Greenberg, A. E., Eaton, A. D., 2005. Standard Methods for Examination of Water & Waste water 21st ed. American Public Health Association Fermin, A. C., and Bolivar, M. E. C., 1991. Larval rearing of the Philippine freshwater catfish, Clarias macrocephalus (Gunther) fed live zooplankton and artificial diet : A preliminary study. lsr. }. Aquaculture/Bamidgeh, 43 (3): 87-94. Hung, L.T., Tuan, N.A., Cacot, P., Lazard, J., 2002. Larval rearing of the Asian Catfish, Pangasius bocourti (Siluroidei, Pangasiidae): alternative feeds and weaning time. Aquaculture;212:115–127 John, D.,1994. Civic nvironmentalism: alternatives toregulation in states and communities. Washington, DC: CQ Press. 134p. Johnson, R. A., Seymour, R. L., Padgett, D. E., 2002. Biology and the systematic of the Saprolegniaceae. Available at: oomycete/ taxonomy and systematics/padgett book/ (Accessed July 21, 2010) Sahoo, S. K., Giri. S.S., and Sahu, A.K., 2004. Effect of stocking density on growth and survival of Clarias batrachus (Linn,) larvae and fry during hatchery rearing, Journal of Applied Ichthyology 20: 302-305 Schell, S.C., 1985. Trematodes of North America,University of Idaho Press, Moscow, 263 pp. Swingle, H.S., 1969. Methods of Analysis for waters, organic matter and Pond Bottom Soils Used in Fisheries Research. Auburn Univ. Auburn, Ala, 119pp. Schram, E, Van der Heul J. W., Kamstra, A., and Verdegem, M.C. J., 2006. Stocking density dependent growth of dover (Solea solea), Aquaculture 252: 239-247 Rahman, M. A., Mazid, M.A., Rahman, M.R., Khan, M.N., Hossain, M.A., and Hussain, M.G., 2005. Effect of stocking density on survival and growth of critically endangered mashseer, Tor putitora (Hamilton), in nursery ponds, Aquaculture 249: 275-284 Xuan, L.N., Long, D.N., Kiem, N.V., Thanh, P.M., Dung, T.T., Tam, B.M., and Liem, P.T., 1994. Some biological characteristic and fish culture techniques in the Mekong Delta, Published by An Giang Environmental and Technical Science Department – An Giang province and Can tho University, Vietnam Watanabe, T., Kitajima, C., and Fujita, S., 1983. Nutritional values of live organisms used in Japan for mass production of fish: A review. Aquaculture, 34: 115-143. Yang, Y., and Kwei Lin, C., 2001. Effects of biomass of caged Nile tilapia (Oreochromis niloticus) and aeration on the growth and yields of all Nile tilapia in an integrated cage-cum-pond system. Aquaculture, 195 (3): 253- 267. 110 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 EFFECTS OF AERATION TO ‘TRA’ CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus) LARVAE REARED IN PONDS IN THE MEKONG DELTA Dinh Thi Thuy1*, Nguyen Thanh Nhan1, Doan Van Cuong1, Nguyen Diem Thu1 ABSTRACT Effects of aeration to nursing of tra catfish larvae up to 21 days was investigated with two treatmens, each consisted of 6 earthern ponds (3,500 – 3,700 m2 each). All experimented ponds are located in Cai Lay district, Tien Giang province. Stocking density was 750 fish/m2. Two treatments differed only in the presence of aeration, in which treatment 1 was provided with aeration while treatment 2 was not. Aeration system consists of circular aeration disks, powered by electrical or backup diesel blowers.The distance between aeration disks were manipulated to ensure maximum efficiency. Biomass of Moina sp. for treatment 1 was significantly higher (p < 0.05) than that for treatment 2, increased at day 3 and thereafter decreased at day 12. Fish length of treatment 1 was significatnly higher (p < 0.05) than that of treatment 2. At stocking, fish length varied from 5.85 to 6.30 mm. After 21 days, fish length was 37.0 mm for treatment 1 and 27.7 mm for treatment 2, and this difference was significant (p < 0.05). Water quality parameters such as water temperature, pH, alkalinity, NH3-N , NO2-N, NO3–N, and COD in both treatments were within limits for fish development. However, the dissolved oxygen in early morning of treatment 2 was lower than that of treatment 1 and lower than the required limits. Dissolved oxygen values of treatment 2 ranged from 2.95 to 4.80 mg/l (except for day 5, 6 and 16), and was significantly different (p < 0.05) from those of treatment 1. The infection frequency and ratio of Trichodina sp. and A. hydrophila of treatment 1 was significantly lower (p < 0.05) than those of treatment 2. Effects of the aeration was also assessed via fish survival rate. Average survival rate of treatment 1 (37.17%) was significantly higher (p < 0.05) than that of treatment 2 (22.82%). Finally, average FCR for both treatments ranged from 0.36 to 0.39. Keywords: rearing, aeration, ‘tra’ catfish. Người phản biện: TS. Trịnh Quốc Trọng Ngày nhận bài: 18/11/2015 Ngày thông qua phản biện: 18/12/2015 Ngày duyệt đăng: 25/12/2015 1. Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2 * Email: thuydinh6898@gmail.com
File đính kèm:
- hieu_qua_cua_viec_su_dung_he_thong_thoi_khi_trong_uong_ca_tr.pdf