Hiện trạng kỹ thuật và kinh tế-Xã hội của mô hình luân canh tôm – lúa ở các huyện giáp biển vùng bán đảo Cà Mau
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 05 đến 11/2011 thông qua điều tra ngẫu nhiên 170 hộ nhằm
phân tích hiện trạng kỹ thuật ứng dụng và kinh tế-xã hội của mô hình sản xuất tôm sú-lúa hiện nay ở
các huyện giáp biển của ba tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Kết quả cho thấy: Việc chú trọng
nâng cao trình độ chuyên môn cho canh tác mô hình luân canh tôm-lúa của người dân trong địa bàn
chưa cao. Phần lớn những người đảm nhiệm “kỹ thuật” chính là chủ hộ gia đình có trình độ học vấn
thấp (từ cấp 1 trở lại chiếm 44,2%). Có tới 62,5% vuông (ruộng) không đảm bảo giữ nước. Đa phần
hộ dân thả tôm giống nhiều lần trong vụ (4,1 lần) với mật độ thả lần đầu cao (4,2 con/m2) và ít quan
tâm đến kiểm tra chất lượng tôm giống (36,5%). Hầu hết nông hộ vội vàng trong thả tôm giống lần
đầu và gieo cấy khi độ mặn chưa được thích hợp. Năng suất tôm nuôi đạt trung bình 172,8 kg/ha/
vụ. Tổng chi phí trung bình 17,3 triệu đồng/ha/vụ, thu nhập từ thủy sản đạt 37,2 triệu đồng/ha/vụ
(tôm nuôi chiếm 69,1%), lợi nhuận đạt 19,9 triệu đồng /ha/vụ và 77,7% số hộ có lời từ thủy sản.
Năng suất lúa trung bình đạt 1,2 tấn/ha/vụ. Tỷ lệ thất mùa lúa (mất trắng) tới 36,7%. Tổng chi phí
sản xuất lúa bình quân là 8,1 triệu đồng/ha/vụ và chỉ có 40,3% số hộ có lời. Nhận định chung cho
thấy: bình quân mỗi ha, nuôi tôm cần tới 68,1% tổng chi phí sản xuất (Kiên Giang 71,1%, Bạc Liêu
65,9%, Cà Mau 64,5%), mang lại 81,2% tổng thu nhập (Kiên Giang 91,8%, Cà Mau 80,2%, Bạc
Liêu 57,6%). Phần trăm tổng lợi nhuận của toàn mô hình Tôm-Lúa là 98,0% (Kiên Giang 112,9%,
Cà Mau 94,1%, Bạc Liêu 41,1%) tương đương 20,3 triệu đồng/ha/năm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng kỹ thuật và kinh tế-Xã hội của mô hình luân canh tôm – lúa ở các huyện giáp biển vùng bán đảo Cà Mau
điều tra cho thấy người nuôi tôm vẫn chưa quan tâm nhiều tới chất lượng tôm giống thả nuôi. Có tới 36,47% hộ không quan tâm gì đến chất lượng tôm giống (cả cảm quan và xét nghiệm, sốc Formalin), đây có thể là một trong những nguyên nhân gây tôm bệnh thường xuyên. Mật độ và số lần thả giống ở ba vùng điều tra có cao hơn nhiều so với khuyến cáo 2,0 con/m2 ở lần thả đầu và 1,5 con/m2 cho 2 lần thả tiếp theo (Thiều Lư và ctv. (2010). Nước là môi trường sống của tôm, trong đó độ mặn giai đoạn thả giống có ý nghĩa quan trọng đến tỷ lệ sống, sinh trưởng và sức khỏe tôm nuôi. Tuy nhiên, hầu hết nông hộ thả giống khi độ mặn thấp. Hơn nữa, hầu hết hộ nuôi lấy nước trực tiếp vào vuông nuôi không qua túi (lưới) lọc, ao (kênh) lắng và một số khác sử dụng thuốc nông dược, thuốc diệt giáp xác để 45TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 xử lý nước nên có thể là nguyên nhân gây tỷ lệ sống tôm nuôi thấp, chậm lớn và bệnh. Hầu hết người nuôi tôm quảng canh cải tiến ít am hiểu về bệnh. Bệnh đỏ thân, đốm trắng, đen mang, đóng rong, nhiễm khuẩn là những loại bệnh mà người nuôi tôm nhận biết được. Một số bệnh khác như bệnh đầu vàng và bệnh gan tụy chưa có kinh nghiệm nhận biết bệnh. Với tất cả các loại bệnh này, người nuôi đều nhấn mạnh tới 3 nguyên nhân chính là do: tôm giống, nguồn nước và thời tiết. Tuy nhiên, theo điều tra cho thấy công tác chăm sóc và quản lý của hộ dân còn lỏng lẻo dù đây là nguồn thu chính cho họ. Có 2,4% hộ không quan tâm tới sức khỏe tôm nuôi, hơn 38% có quan tâm tới bệnh nhưng không thường xuyên. Trong năm 2011, tôm nuôi tại Kiên Giang cho kết quả khả quan hơn so với Cà Mau và Bạc Liêu. Kết quả khảo sát cho thấy năng suất tôm nuôi cao hơn năng suất tôm nuôi trong mô hình T-L tại Cà Mau năm 2003 (88-100 kg/ha/ vụ) (Cao Phương Nam (2003), nhưng thấp hơn năng suất của các nghiên cứu khác về mô hình T-L năm 2010 (Sở NN&PTNT Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, 2011). Mặc dù cả hai đối tượng cua và cá thả nuôi bổ sung nhưng mang lại thu nhập rất đáng kể cho hộ nuôi tôm, hai đối tượng này có năng suất biến động lớn giữa các địa bàn và các hộ nhưng kết quả cho thấy: Việc nuôi ghép tôm–cua–cá ngoài giảm rủi ro trong nuôi trồng thủy sản (Hoàng Văn Long, 2011) còn giúp cải thiện thu nhập cho người nuôi tôm. Tổng chi phí cho nuôi tôm bình quân khoảng 17,3 tr.đ/ha/vụ và dao động khá lớn, nhiều nhất ở Kiên Giang (23,2 tr.đ) và ít nhất ở Cà Mau (12,0 tr.đ). Trong tổng chi phí thì có tới 95,5% là chi phí biến đổi, với các khoản chi phí lớn là: Tôm giống (30,4%), Cải tạo vuông (20,8%), Ước giá trị lao động gia đình (17,3%), Bổ sung giống thủy sản (12,0% kể cả giống cua và cá). Do hầu hết các hộ chỉ sử dụng công gia đình nên việc thuê lao động thường xuyên cho nuôi tôm là không đáng kể. Tổng thu nhập từ thủy sản của mô hình T-L là 37,2 tr.đ/ha/vụ, trong đó ở Kiên Giang cao hơn gấp đôi so với ở Bạc Liêu (59,1 tr.đ so với 21,6 tr.đ). Trong cơ cấu thu nhập từ thủy sản thì tôm nuôi đóng góp nhiều nhất (69,1%), kế đó là cua và sau cùng là cá. Tổng lợi nhuận từ thủy sản bình quân đạt 19,9 tr.đ/ha/vụ, nhưng biến động lớn giữa các địa bàn và giữa các hộ trong từng địa bàn (±29,7 tr.đ/ha/vụ) vì có trung bình 22,4% hộ nuôi tôm bị thua lỗ. Đối với sản xuất lúa trong mô hình T-L năm 2010 Cải tạo đất, rửa mặn được xem là khâu mấu chốt quyết định thành công của vụ sản xuất lúa trong mô hình T-L. Vụ mùa năm 2010, cho thấy khâu chuẩn bị đất tại vùng Kiên Giang (có 74,6% hộ cày/bừa/trục) tốt hơn hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu. Ngược lại khâu chủ động rửa mặn được số hộ ở Cà Mau và Bạc Liêu quan tâm nhiều hơn. Cũng qua điều tra cho thấy khó khăn nhất trong khâu cải tạo đất cho sản xuất lúa là: phụ thuộc vào thời tiết (lượng mưa), thiếu nước ngọt để rửa mặn cho đất và thiếu cơ giới để cải tạo. Bên cạnh có tới 58% hộ cho rằng do đất bị nhiễm mặn từ vụ tôm trước nên khó có thể rửa mặn triệt để. Tùy theo điều kiện chung của từng địa phương và điều kiện kinh tế của từng nông hộ, nông hộ có thể thể cấy hoặc xạ lan hoặc xạ hàng, có thể sử dụng giống lúa mùa trung hay dài ngày hay giống lúa cao sản ngắn ngày. Đối với Cà Mau và Bạc Liêu, nông hộ thường cấy và giống lúa là Một bụi đỏ, còn Kiên Giang chọn phương pháp xạ lan với giống lúa cao sản ngắn ngày là OM2517. Đối với cấy sẽ giúp giảm chi phí lúa giống, có thời gian chuẩn bị đất và rút ngắn được thời gian phát triển của lúa trên ruộng, nhưng sản lượng thấp, dễ sâu bệnh và tốn chi phí công cấy. Đối với giống lúa cao sản ngắn ngày xạ lan sẽ giúp giảm chi phí công cấy, sản lượng cao. Tuy nhiên tốn lúa giống, lúa giống khó để giống, khi phát triển gặp nắng hạn cục bộ sẽ khó phục hồi. 46 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Nhiều báo cáo trước chỉ ra rằng, việc sử dụng thuốc nông dược (thuốc diệt cỏ, thuốc trù sâu) ngay trong ruộng (vuông) nên cần được xem xét đến khả năng tồn lưu trong đất và nước để hạn chế ảnh hưởng đến đối tượng nuôi (tôm), điều này được chính người canh tác T-L đồng ý tới 60,17% và mức độ ảnh hưởng đến tôm nuôi 33,75%. Tuy nhiên, đa phần người dân vẫn sử dụng thuốc nông dược để phòng trị bệnh cho lúa. Thực tế cho thấy ruộng (vuông) nuôi luân canh T-L sẽ góp phần giảm chi phí phân bón cho lúa bởi chất thải của vụ tôm sẽ được rễ lúa hấp thụ. Điều này phù hợp với kết quả điều tra là giảm 30,8 % chi phí phân bón cho lúa. Năm 2010 được xem là năm khó khăn trong việc trồng lúa của cả 3 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang. Kết quả trung bình 36,7% hộ thất mùa (mất trắng), cao nhất là Kiên Giang (76,8%), đến Bạc Liêu (39,5%) và Cà Mau (15,4%). Chính vì vậy nên sản lượng lúa thu hoạch chỉ đạt bình quân 1,2±1,5 tấn/ ha. Có thể thấy rằng năng suất lúa thấp hơn mức bình quân chung 3-4 tấn/ha từ kết quả của các nghiên cứu trước đây về mô hình T-L (Sở NN&PTNT Bạc Liêu, Cà mau và Kiên Giang, 2011). Về mặt lợi nhuận trên vụ lúa năm 2010 cũng thấp, tổng lợi nhuận bình quân từ lúa chỉ đạt 0,4±11,1 tr.đ/ha/vụ nhưng có độ chênh lệch rất lớn giữa 3 tỉnh, Bạc Liêu là 7,4±15,8tr.đ/ ha/vụ, Cà Mau 1,2 ±9,7tr.đ/ha/vụ và thấp nhất ở Kiên Giang – 4,1±10,1 tr.đ/ha/vụ. Nguyên nhân thất mùa năm 2010 do nông hộ vội vàng trong xuống giống khi đất chưa được rửa mặn kỹ và do nắng cục bộ kéo dài, độ mặn xâm nhập sớm. Việc canh tác lúa trên đất nuôi tôm hiện nay của các tỉnh ven biển vùng bán đảo Cà Mau cho thấy hoàn toàn phụ thuộc vào lượng nước mưa hàng năm. Trong tổng chi phí cho sản xuất lúa thì các khoảng chi phí chủ yếu chiếm tỷ lệ cao là: Cải tạo ruộng (21,9%), phân bón (21,6%), lúa giống (15,1%), lao động (13,6%). Nhận định về mô hình T-L và cách thử nghiệm để cải tiến trong tương lai Đa số (67,5%) người dân hiện đang canh tác T-L nhận thức được rằng mô hình T-L mang tính bền vững (Cà Mau 90,5%, Kiên Giang 63,2%, Bạc Liêu 46,8%), nhưng 16,6% không nhận thấy sự khác biệt so với sản xuất chuyên canh và 11,5% không nhận thức được. Tổng kết từ cả vụ nuôi tôm và trồng lúa cho thấy bình quân mỗi ha nuôi tôm cần tới 68,1% tổng chi phí sản xuất (Kiên Giang 71,1%, Bạc Liêu 65,9%, Cà Mau 64,5%), mang lại 81,2% tổng thu nhập (Kiên Giang 91,8%, Cà Mau 80,2%, Bạc Liêu 57,6%), và tổng lợi nhuận của toàn mô hình T-L là 98,0% (Kiên Giang 112,9%, Cà Mau 94,1%, Bạc Liêu 41,1%) tương đương 20,3 tr.đ/ha/năm, lợi nhuận này nhìn chung thấp so với một số báo cáo trước đây. Bốn giải pháp cải thiện năng suất và lợi nhuận từ tôm nuôi trong mùa khô mà người dân quan tâm là: (i) Ương con giống trước khi lan ra vuông (22,4%), (ii) Nuôi ngắt vụ (21,8 %), (iii) Thả liên tục với mật độ thưa (17,3%), và (iiii) Kết hợp cả ương giống và nuôi ngắt vụ (12,8%). Kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở cho các bước thực nghiệm nghiên cứu tiếp theo. Đối với sản xuất lúa, một tỷ lệ khá cao (79,9%) hộ đồng ý thiết kế ao dự trữ nước ngọt là cần thiết, ở Cà Mau (95,8%), Kiên Giang (82,5%) và Bạc Liêu (59,1%). Việc nghiên cứu này cũng là điểm nhấn cần quan tâm trong thiết kế hệ thống mô hình T-L trong bước tiếp theo. Vì ngoài việc chứa nước ngọt dự trữ cho tưới tiêu cho cây lúa, ao còn có thể nuôi tôm mật độ cao hơn để góp phần nâng cao năng suất sản lượng tôm và tăng thu nhập cho hộ dân. 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Kết luận (1) Việc chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn cho canh tác Tôm-Lúa của người dân chưa cao. Người đảm nhiệm “kỹ thuật” chính là chủ hộ trong gia đình có trình độ học vấn thấp. 47TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Trong khi tuổi trẻ có trình độ cao thì làm những công việc khác không liên quan đến canh tác Tôm-Lúa. (2) Chỉ 22,4% hộ có thiết kế thêm mương trong trảng cho tôm trú ẩn. Không có mương phèn để rửa phèn và mặn cho vụ trồng lúa. (3) Việc gia cố bờ bao nhằm quản lý nước chưa đảm bảo, 62,5% vuông (ruộng) không đảm bảo giữ nước. (4) Tôm giống thả nhiều lần trong vụ, mật độ tôm giống thả cho tất cả các lần thả cao 16,3 con/m2 (không tính thu tỉa). Lúa giống được chọn để giống từ năm (vụ) trước. Nông hộ vội vàng thả tôm giống và xuống giống lúa khi độ mặn chưa đảm bảo. (5). Tổng chi phí cho nuôi tôm bình quân 17,3 tr.đ/ha/vụ, trong đó chi phí tôm giống cao nhất 30,4% và sau đó cải tạo vuông 20,8%. Năng suất tôm thu được bình quân 172,8 kg/ ha/vụ. Năng suất cua trung bình 74,1 kg/ha/vụ, năng suất cá 230,0 kg/ha/vụ. Tổng thu nhập từ thủy sản là 37,2 tr.đ/ha/vụ, trong đó thu nhập từ tôm chiếm 69,1%, kế đó là cua 28,6%. Tổng lợi nhuận trên đối tượng thủy sản bình quân đạt 19,9 tr.đ/ha/vụ. (6) Tổng chi phí cho sản xuất lúa bình quân 8,14 tr.đ/ha/vụ, trong đó chi phí cải tạo ruộng cao nhất 21,9% và sau đó phân bón 21,6%. Trung bình có tới 36,7% số hộ thất mùa (Kiên Giang 76,8%, Bạc Liêu 39,5% và Cà Mau 15,4%) nên doanh thu từ lúa bình quân trong nghiên cứu thấp, chỉ 8,6 tr.đ/ha/vụ. (7) Việc trồng lúa vào mùa mưa (năm 2010) và nuôi tôm mùa khô (năm 2011) của các huyện giáp biển vùng bán đảo Cà Mau có nhiều rủi ro, tỷ lệ xuất hiện bệnh trên tôm nhiều, điều tiết nước ngọt rửa mặn và tưới tiêu cho lúa thụ động, hoàn toàn phụ thuộc thời tiết trong năm. Đề xuất (1) Nghiên cứu thiết kế tỷ lệ diện tích mương hoặc ao chứa nước so với hệ thống vuông phù hợp để góp phần cải thiện năng suất, sản lượng và tăng thu nhập cho hộ canh tác Tôm-Lúa. (2) Triển khai thực nghiệm các mô hình nuôi tôm khác nhau như: ương tôm giống trong ao trước khi thả ra vuông nuôi quảng canh cải tiến, thả giống trực tiếp vuông nuôi quảng canh cải tiến với mật độ thưa, nuôi tôm trong ao ở mật độ cao, hoặc kết hợp các mô hình trên. (3) Nghiên cứu các bộ giống lúa cao sản có năng suất cao, kháng trừ sâu bệnh và chịu phèn, chịu mặn cao tại các vùng sinh thái nhiễm mặn khác nhau của ĐBSCL. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. Hoàng Văn Long, 2011. Đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình canh tác Lúa - Tôm sú và Lúa - Tôm sú - Cua biển tại vùng U Minh Thuợng, tỉnh Kiên Giang. Luận văn cao học, Khoa Kinh Tế & Quản Trị Kinh Doanh, Trường Ðại học Cần Thơ, 76 trang. Thiều Lư, Trình Trung Phi, Nguyễn Công Thành, Đỗ Văn Hoàng, Ngô Minh Lý, Trần Quốc Bình, Nguyễn Trọng Nghĩa, 2010. Nghiên cứu một số giải pháp phát triển bền vững các mô hình nuôi tôm trên vùng chuyển đổi tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Báo cáo khoa học, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 2. 103 trang. Cao Phương Nam, 2003. Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ khoa hoặc kỹ thuật để phát triển NTTS hai huyện Ngọc Hiển và Cái Nước. Báo cáo tổng kết khoa học. Sở NN&PTNT Bạc Liêu, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. Sở NN&PTNT Cà Mau, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. Sở NN&PTNT Kiên Giang, 2011. Báo cáo tổng kết năm 2010 và phương hướng năm 2011. 48 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 CURRENT TECHNICAL AND SOCIO-ECONOMIC STATUS OF THE RICE- SHRIMP ROTATION MODEL IN COASTAL DISTRICTS OF CAMAU PENINSULA Nguyen Cong Thanh1, Ngo Minh Ly1, Nguyen Van Hao2 ABSTRACT The study was carried out through random survey of 170 households in order to analyze the cur- rent status of technical and socio-economic aspects of the rice-shrimp rotation model in the coastal border districts of the three provinces of Bac Lieu, Ca Mau and Kien Giang. The results indicate that it is not priority focus on improving of technical knowledge for the local farmers in shrimp-rice rotation practices. Majority of technical farmers are the household owners who have low education (up to 44.2% of the technical farmers are primary school level). Up to 62.5% of rice fields does not guarantee of water retention. Most households stock shrimp postlarvae for several times (4.1 times) per crop with the first stocking was high density (4.2 shrimp/m2) and very little attention was concerning for seed quality (36.5%). Most households in a hury to stock first shrimp postlarvae and culture when the salinity of water was not yet suitable. Shrimp yield obtained at the three provinces was averaged at 172.8 kg/ha/crop. Total average production cost of 17.3 million VND/ha /crop. The income from aquaculture reached 37.2 million VND/ha/crop (of which shrimp accounted for 69.1%). The average profit was at 19.9 million VND/ha/crop with 77.7% of the households in suc- cess of aquaculture. Average rice yield for the three provinces was 1.2 ton/ha/crop. Unsccessful rice crop was up to 36.7%. The production cost of rice was 8.1 million VND/ha/crop and only 40.3% of households have their own profits. General assessment on the collected data show that the average production cost per ha for shrimp farming activity was taken of 68.1% of the total rice-shrimp rota- tion costs (particularly in Kien Giang was 71.1%, Bac Lieu was 65.9%, and Ca Mau was 64.5%), consequently shrimp farming brings about 81.2% of total rice-shrimp income for the farmer in average (particularly Kien Giang was 91.8%, Ca Mau was 80.2%, and Bac Lieu was 57.6%). Aver- age percentage of the total profits of the rice-shrimp rotation model was 98.0% (Kien Giang was 112.9%, Ca Mau was 94.1%, and Bac Lieu was 41.1%), correspond to 20.3 million VND per ha per year. Key words: cost, salinity, profit, yield, rice-shrimp. Người phản biện: ThS. Đỗ Quang Tiền Vương Ngày nhận bài: 6/6/2013 Ngày thông qua phản biện: 20/6/2013 Ngày duyệt đăng: 8/7/2013 1 Minh Hai Sub-Institute for Fisheries Research, Research Institute for Aquaculture No2 Email: ncthanh444789@yahoo.com 2 Research Institute for Aquaculture No2
File đính kèm:
- hien_trang_ky_thuat_va_kinh_te_xa_hoi_cua_mo_hinh_luan_canh.pdf