Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Tóm tắt: Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có tiềm năng rất lớn về nuôi trồng và

đánh bắt thủy sản, góp phần thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm

nghèo, đặc biệt tại các vùng nông thôn ven biển. Biến đổi khí hậu (BĐKH), nước biển dâng

(NBD) và thời tiết cực đoan ngày càng khắc nghiệt với diễn biến phức tạp, ảnh hưởng lớn

tới các hệ sinh thái, các nguồn sinh kế khu vực ven biển, trong đó nổi bật là nuôi trồng thủy

hải sản. Việc đánh giá, dự báo tác động của BĐKH, NBD đối với hoạt động thủy sản khu

vực ĐBSCL là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 5220
Bạn đang xem tài liệu "Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Dự báo tác động của biến đổi khí hậu, nước biến dâng đối với hoạt động thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long
ức để đầu tư ao nuôi cá tra thương phẩm, 
HTX còn đứng ra tổ chức các khâu dịch 
vụ để hỗ trợ xã viên như tìm và cung cấp 
các yếu tố đầu vào, liên kết với doanh 
nghiệp chế biến để ổn định đầu ra. 
Dù có nhiều lợi thế để phát triển 
nhưng đến nay, sự tăng trưởng ấy của 
ngành thủy sản chưa thực sự được như 
mong đợi. Tốc độ tăng trưởng tuy rất ấn 
tượng nhưng lại kèm theo nhiều biểu hiện 
thiếu bền vững mà một trong những 
nguyên nhân là do tác động của BĐKH. 
3. Tác động của biến đổi khí hậu, 
nước biển dâng đến hoạt động thủy 
sản ở ĐBSCL 
3.1. Nuôi trồng thủy sản 
Ngành nuôi trồng thủy sản phát triển 
của vùng ĐBSCL bao gồm: nuôi thủy sản 
nước lợ mặn, nuôi thủy sản nước ngọt. 
Trong thời gian qua, do những yếu tố 
bất thường của thời tiết, chủ yếu là thời 
tiết nắng nóng kéo dài, diễn biến thời tiết 
bất thường làm biến động các yếu tố môi 
trường gây ảnh hưởng đến sức khỏe tôm 
nuôi, thiệt hại về ngành nuôi trồng tại môt 
số tỉnh thuộc ĐBSCL trong thời gian qua 
cũng rất lớn. Trước diễn biến của BĐKH 
trong thời gian tới, đặc biệt là sự gia tăng 
nhiệt độ và biến đổi lượng mưa sẽ tác 
động rất lớn đến hoạt động nuôi trồng 
thủy sản trên địa bàn. 
Ảnh hưởng của nhiệt độ: 
Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng cho 
quá trình sinh trưởng và phát triển của 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 39/Quý II- 2014 
74 
sinh vật nói chung và các loài nuôi trồng 
thủy sản nói riêng. Mỗi loài có khoảng 
nhiệt độ thích ứng riêng. Khả năng chống 
chịu của chúng nằm trong khoảng giới 
hạn nhất định. (Ví dụ nhiệt độ thích hợp 
cho sinh trưởng và phát triển của tôm 
nước lợ giới hạn trong khoảng 28 – 30oC, 
nếu nhiệt độ cao hơn 30oC hoặc thấp hơn 
28oC thì sự phát triển của tôm sẽ bị ảnh 
hưởng như tôm chậm lớn). Nhiệt độ nước 
trong các ao đầm phụ thuộc hoàn toàn vào 
thời tiết và từng địa phương. Khi nhiệt độ 
không khí tăng lên làm cho nước nóng lên, 
tuy nhiên biến động nhiệt độ nước trong 
các ao đầm chậm hơn so với không khí. 
Hiện tượng nắng nóng đã làm cho 
nhiệt độ nước tăng lên quá mức chịu đựng 
của nhiều loài sinh vật, trong đó có các 
loài nuôi. Nước nóng sẽ làm cho tôm cá 
chết hàng loạt, đặc biệt nghiêm trọng đối 
với các ao, vuông tôm có độ sâu nhỏ: độ 
sâu trung bình của các ao, đầm nuôi thâm 
canh tối thiểu từ 1,2m. Trong khi, nuôi 
quảng canh cải tiến chỉ 0,7m, đặc điểm 
này chiếm đa số với các hình thức nuôi 
tôm tại các địa phương. Đối với các vực 
nước có độ sâu cao, vực nước lớn hoặc 
chảy thì sự thay đổi về nhiệt độ hiện xảy 
ra chậm hơn và nước ít bị nóng hơn. Vì 
vậy, việc nuôi lồng bè trên các vực nước 
lớn như sông, biển thường ít bị ảnh hưởng 
của sự tăng nhiệt độ quá mức như hình 
thức nuôi cá tra ven sông Hậu sẽ ít chịu 
tác động mạnh từ gia tăng nhiệt độ còn các 
vực nước tù và ao, vuông nhỏ trong nội 
đồng thường dễ bị ảnh hưởng nghiêm 
trọng hơn. 
Sự tăng nhiệt độ có thể làm suy giảm 
sản lượng thủy sản trong các ao, vuông 
tôm. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng khi 
nhiệt độ tăng lên làm cho hàm lượng oxy 
trong nước trong giảm mạnh vào ban đêm, 
do sự tiêu thụ quá mức của các loài thực 
vật thủy sinh, hoặc quá trình phân hợp 
chất hữu cơ. Sự suy giảm hàm lượng oxy 
làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát 
triển của loài nuôi, tôm có thể bị chết hoặc 
chậm lớn. Điều này dễ nhận thấy qua hiện 
tượng hiện tượng phù dưỡng của các ao 
nuôi; cá nổi đầu vào buổi sáng trong các 
ao nuôi; thủy triều đỏ và tảo chết hàng 
hoạt ở các vùng ven biển. 
Bảng 1: Đặc tính chịu mặn của các tra và tôm 
 Cá Tra Tôm 
Nhiệt độ trong 
đầm (oC) 
Giới hạn thuận lợi cho sự phát triển 
của cá tra là 28 –30 °C (Hargreaves 
and Tucker 2003). 
29.8±1.04 (Duong, N.D., 2006) 
Buổi sáng: 28.3±0.49 buổi chiều: 
30.5±0.51 (Chuyen, 2006). 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 39/Quý II- 2014 
75 
Chịu mặn (ppt) 
Các tra có thể tồn tại và phát triển 
trong nước có độ mặn thấp 
(Buttner, n.d). 
Giới hạn 15 - 30 ppt; phát triển 
thuận lợi là 25 ppt. Sự sống của 
tôm bị ảnh hưởng khi vượt giới 
hạn 10 - 35 ppt. 
 Nguồn: Báo cáo đánh giá, 2010 (WFC và nnk) 
Bảng 2: Dự báo diện tích đầm tôm là đối tượng tác động của việc độ mặn tăng lên mức 
cao nhất trong mùa khô theo kịch bản nước biển dâng 50 cm 
Đơn vị: Ha 
Tỉnh 
Sự tăng nước mặn, ppt 
Tổng 
<0 0 - 1 1 - 2 2 - 3 3 - 4 4 - 8 
Bạc Liêu 20.720 48.041 14.451 16.563 6.189 2.014 107.978 
Bến Tre 11.806 30.027 41.833 
Cà Mau 109.420 34.739 1.607 1.972 2.588 15.821 166.147 
Kiên Giang 27.059 747 1.776 29.583 
Sóc Trăng 2.652 14.613 4.300 31.565 
Tiền Giang 2.559 1.201 3.760 
Trà Vinh 12.848 17.837 30.685 
Vĩnh Long 25 124 148 
Tổng các 
tỉnh 
187.089 146.581 30.358 18.536 9.524 19.612 411.699 
 Nguồn: Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển và Phát triển cộng đồng – MCD, năm 2007 
Bên cạnh mặt tiêu cực, tăng nhiệt độ 
cũng là điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng 
thủy sản. Sự tăng lên của nhiệt trong 
khoảng cho phép tăng năng suất sơ cấp 
cho các ao nuôi, tạo điều kiện tốt cho sự 
phát triển của các loài thủy sinh là nguồn 
thức ăn quan trọng cho các loài nuôi. Đặc 
điểm này tìm thấy trong các nghiên cứu 
tại các vùng nuôi tôm phía Bắc. Riêng các 
khu vực nuôi tôm phía Nam, đặc biệt là 
một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thì 
yếu tố tăng nhiệt độ là điều kiện thuận lợi 
cho nuôi trồng thủy sản vẫn chưa được 
nghiên cứu, đánh giá cụ thể. 
Ảnh hưởng của lượng mưa: 
Nguồn nước là một trong những yếu 
tố quyết định sự thành công cho phát triển 
nuôi trồng thủy sản. Hiện tượng nắng 
nóng kéo dài, lượng mưa khan hiếm sẽ 
làm cạn kiệt nguồn nước ngọt, làm tăng 
mức độ bốc hơi nước trong các ao nuôi. 
Đối với các ao nuôi gần nguồn cung cấp 
nước hoặc nuôi lồng bè trong vực nước 
lớn (sông, kênh rạch, biển) thì ảnh hưởng 
này không lớn, nhưng đối với ao nuôi 
cách xa nguồn nước thì nuôi trồng thủy 
sản bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng. 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 39/Quý II- 2014 
76 
Ngoài ra, ảnh hưởng trực tiếp từ việc 
giảm mưa trong mùa khô, đồng thời cùng 
với sự tăng nhiệt độ không khí sẽ làm tăng 
lượng bốc hơi tại các đầm nuôi, đặc biệt là 
trong đầm nuôi tôm quảng canh vì vậy sẽ 
làm tăng độ mặn trong các đầm này. Điều 
này sẽ đòi hỏi phải bơm thêm nước ngọt 
vào các đầm trong mùa khô để ổn định độ 
mặn và vì thế sẽ cạnh tranh việc sử dụng 
nước ngọt ở các lĩnh vực nông nghiệp khác 
như trồng lúa nước và hoa màu. 
Ảnh hưởng của bão: 
Bão đã gây ra những cơn sóng dữ dội 
có thể tàn phá hoàn toàn hệ thống đê bao 
của các ao nuôi, lồng bè trên biển và khu 
vực nuôi cá tra ven sông. Vì vậy tổn thất 
mà bão gây ra cho hoạt động nuôi trồng 
thủy sản là điều khó tránh khỏi. Sự tàn phá 
của bão và áp thấp nhiệt đới còn ảnh 
hưởng đến hệ sinh thái của vùng nuôi, cần 
thời gian dài mới có thể phục hồi. So với 
sự thay đổi nhiệt độ thì bão và áp thấp 
nhiệt đới thường khó có thể dự đoán, 
ngược lại mức độ ảnh hưởng của nó ảnh 
hưởng nghiêm trọng hơn rất nhiều. 
Có thể nói rằng, hiện tượng khắc 
nghiệt của biến đổi khí hậu này ảnh hưởng 
rất lớn đến mọi vấn đề không chỉ riêng 
nuôi trồng thủy sản. Đối với vùng ven 
biển, nơi mà cộng đồng cư dân sống chủ 
yếu dựa vào hoạt động nuôi trồng thủy 
sản, nếu bão xảy ra thì thiệt hại về kinh tế 
là điều khó tránh khỏi, sinh kế của họ sẽ 
bị mất. 
Ảnh hưởng của nước biển dâng: 
Sự xâm nhập mặn là đặc biệt quan 
trọng trong hệ thống nuôi tôm và cá tra 
ven biển, trong đó các trang trại nuôi tôm 
quảng canh và trang trại nuôi cá tra nội địa 
là đặc biệt nhạy cảm với lũ lụt. Nước biển 
dâng làm cho quá trình ngập và diễn biến 
xâm nhập mặn trở nên phức tạp hơn. 
Vùng nuôi tôm nước lợ ven biển ảnh 
hưởng bởi gia tăng xâm nhập mặn trong 
mùa khô, đặc biệt ở đây các đầm tôm nằm 
bên ngoài của vùng bờ biển được bảo vệ 
bởi đê biển và các cống điều tiết nước. 
Thêm vào đó, độ chịu mặn của tôm Sú có 
thể ở mức cao là 35 – 40 ppt nhưng khi ở 
giới hạn chống chịu này thì các loài này 
phải đối mặt với việc dễ bị nhiễm bệnh 
hơn. 
Nếu mực nước biển dâng cao, các trại 
nuôi trồng thuỷ sản phải di dời và bị xâm 
mặn. Khi nước biển dâng, diện tích nuôi 
trồng thủy sản mặn, lợ có thể được mở 
rộng. Tuy nhiên, lợi ích của hiện tượng 
này cho hoạt động nuôi trồng thuỷ sản 
nước lợ là không lớn do môi trường nước 
tại những khu vực này thường là đã bị suy 
thoái nên cũng khó có thể sử dụng cho các 
hoạt động nuôi trồng thuỷ sản một cách 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 39/Quý II- 2014 
77 
hiệu quả nếu không có các giải pháp tốn 
kém để xử lý và cải tạo môi trường nước. 
Hơn nữa những thiệt hại mà mực nước 
biển dâng gây ra đối với đời sống kinh tế 
xã hội và sự phát triển của hoạt động nuôi 
trồng thuỷ sản còn lớn hơn rất nhiều so 
với lợi ích từ việc mở rộng các diện tích 
nuôi trồng thủy sản nước lợ này. 
Như vậy, sự gia tăng nhiệt độ và tình 
trạng hạn hán trong tương lai do biến đổi 
khí hậu sẽ tác động rất lớn đến hệ thống 
nuôi trồng thủy sản nội đồng bao gồm: 
nuôi tôm nước lợ, nuôi cá nước ngọt. 
Trong khi, hình thức nuôi cá ven sông lại 
là đối tượng có thể bị ảnh hưởng nặng nhất 
do tình trạng nước biển dâng. 
3.2. Nguồn lợi thủy sản và nghề cá 
Nguồn lợi thủy sản và nghề cá sẽ chịu 
tác động mạnh mẽ của BĐKH. Đặc biệt 
nghề cá quy mô nhỏ ven bờ với các loại 
ngư lưới cụ khai thác truyền thống tại các 
xã ven biển là một trong những lĩnh vực 
nhạy cảm nhất và dễ bị tổn thương nhất 
trước tác động của BĐKH. 
Ảnh hưởng lên nghề cá trong và 
xung quanh các khu vực rừng ngập 
mặn: 
Rừng ngập mặn cùng với 2 hệ sinh 
thái biển – ven biển nhiệt đới điển hình 
(rạn san hô và thảm cỏ biển) quyết định 
phần lớn năng suất sơ cấp của toàn vùng 
biển. Rừng ngập mặn ven biển ĐBSCL là 
cái nôi của nghề cá ven bờ (cả khai thác 
và nuôi trồng thuỷ sản ven bờ), dải rừng 
ngập mặn ven biển là những cái nôi của 
nguồn lợi thuỷ sản, là nơi mà nguồn lợi tự 
nhiên, trong đó có nguồn lợi thuỷ sản 
được bảo tồn, sinh sôi và phát tán ra các 
vùng nước xung quanh. Nếu xét trên tổng 
thể ngành thuỷ sản, theo ước tính khoảng 
gần 50% sản lượng tôm sú thu được của 
ngành là được nuôi và khai thác có liên 
quan đến rừng ngập mặn. 
Ngoài ra, cùng với việc RNM bị phá 
huỷ làm đầm nuôi tôm, đào mương dẫn 
nước vào vùng đầm nuôi đã ảnh hưởng 
đến môi trường sống của nhiều loài sống 
xung quanh khu vực rừng ngập mặn thì 
diện tích rừng còn bị suy giảm do nước 
biển dâng. Mưa lớn và tập trung trong thời 
gian ngắn cũng gây ảnh hưởng mạnh mẽ 
đến nguồn lợi sinh vật sống trong các rừng 
ngập mặn, đặc biệt là các động vật nổi ở 
vùng cửa sông và vùng nước lợ. 
Những trận mưa lớn sẽ làm độ mặn 
thay đổi đột ngột và làm cho một số sinh 
vật nổi ở vùng rừng ngập mặn cửa sông 
chết hàng loạt, gây ảnh hưởng không nhỏ 
đến thu nhập và đời sống của các cộng 
đồng dân cư khai thác nguồn lợi quy mô 
nhỏ ở các vùng ngập mặn cửa sông. Vào 
mùa khô với sự gia tăng nhiệt độ và kéo 
dài, lúc này độ mặn trong đất RNM sẽ lên 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 39/Quý II- 2014 
78 
rất cao (4 - 4,5%) ảnh hưởng đến cả thực 
vật và các sinh vật đáy như thân mềm, 
giun nhiều tơ. Các đối tượng này bị chết 
hoặc phải di cư, gây ảnh hưởng đến chuỗi 
thức ăn tự nhiên cho các đối tượng hải sản 
tôm, cua, ghẹ, cá nước lợ trong RNM, gây 
suy giảm năng xuất sinh học và năng suất 
khai thác của các cộng đồng dân cư địa 
phương sống phụ thuộc vào nguồn lợi 
thuỷ sản trong RNM. 
Bên cạnh đó, mực nước biển dâng sẽ 
xâm nhập sâu vào nội địa, tiêu diệt nhiều 
loài sinh vật nước ngọt. Điều này sẽ gây 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nghề 
khai thác thuỷ sản nội địa và ven biển thủ 
công (như đăng, đó, sáo, nò, súc thủ công) 
và một số nghề khai thác ven bờ quy mô 
nhỏ như câu, rê. Đây là những nghề phần 
lớn được thực hiện bởi những cộng đồng 
ngư dân nghèo. Đồng thời, nguồn lợi 
giống tự nhiên cung cấp cho việc nuôi 
nhiều đối tượng nuôi khác nhau cũng sẽ bị 
ảnh hưởng, đẩy giá giống lên cao do tình 
trạng khan hiếm nguồn cũng như tôm 
giống tự nhiên, đặc biệt là giống cá kèo có 
giá trị thương phẩm cao hầu như chỉ bắt 
giống ngoài tự nhiên nuôi, hiện chưa có 
phương pháp nhân giống nhân tạo. 
Ảnh hưởng lên nguồn lợi thủy sản 
biển và hoạt động đánh bắt xa bờ: 
Sự thay đổi khí hậu có tác động đến 
các hệ sinh thái biển, làm biến động chủng 
quần và nguồn lợi cá biển: 
+ Khả năng cố định chất hữu cơ của 
hệ sinh thái rong biển giảm, dẫn đến giảm 
nguồn cung cấp sản phẩm quang hợp và 
chất dinh dưỡng cho sinh vật đáy. Do vậy, 
chất lượng môi trường sống của nhiều loại 
thuỷ sản xấu đi. 
+ Nhiệt độ tăng làm cho nguồn lợi 
thuỷ hải sản bị phân tán. Các loại cá cận 
nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị giảm bớt 
hoặc mất đi. 
BĐKH có tác động đến cộng đồng 
dân cư ven biển, đặc biệt là bộ phận ngư 
dân đánh bắt xa bờ, tần suất, cường độ của 
bão và áp thấp nhiệt đới sẽ xuất hiện ngày 
càng nhiều hơn. Do đó, thiệt hại cho cộng 
đồng dân cư là nghiêm trọng và khó tránh 
khỏi. 
Một điểm đáng được quan tâm đối 
với cộng động dân cư ven biển là đa số 
những người làm nghề đánh bắt thủy sản 
là những người nghèo trong xã hội. Do 
sản lượng đánh bắt tự nhiên giảm, nền 
tảng kinh tế của mọi cộng đồng dân cư 
ven biển không được ổn định. 
Tài Liệu Tham Khảo 
1. Báo cáo tổng hợp dự án rà soát, 
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển 
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 39/Quý II- 2014 
79 
nông nghiệp – nông thôn và quy hoạch phát 
triển các sản phẩm chủ lực ngành nông 
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Sóc 
Trăng đến năm 2015 và định hướng đến 
năm 2020, UBND tỉnh Sóc Trăng, năm 
2009. 
2. Báo cáo thuyết minh tổng hợp Quy 
hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch 
sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011 – 2015) 
tỉnh Sóc Trăng, UBND tỉnh Sóc Trăng, năm 
2010. 
3. Rà soát, điều chỉnh và bổ sung quy 
hoạch tổng thể phátv triển thủy sản tỉnh Sóc 
Trăng đến năm 2010, định hướng đến năm 
2020, UBND tỉnh Sóc Trăng, năm 2008. 
4. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 
tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020, UBND tỉnh 
Sóc Trăng, năm 2009. 
5. IPCC, 2007. The 4th assessement 
report of the Intergovernmental Panel on 
limate Change. 
6. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng 
phó với biến đổi khí hậu (được thủ tướng 
Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 
158/2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008). 
7. Báo cáo phát triển con người, năm 
2007/2008 của UNDP - Cuộc chiến chống 
biến đổi khí hậu: đoàn kết nhân loại trong 
một thế giới phân cách. 

File đính kèm:

  • pdfdu_bao_tac_dong_cua_bien_doi_khi_hau_nuoc_bien_dang_doi_voi.pdf