Đánh giá điều kiện khí hậu, thủy văn các tỉnh dọc sông Tiền và sông Hậu phục vụ nuôi cá tra
TÓM TẮT
Báo cáo này thu thập và phân tích số liệu về điều kiện khí hậu và thủy văn các tỉnh ven sông
Tiền sông Hậu (trong giai đoạn 2006-2010) để đánh giá tác động của những điều kiện này đến việc
phát triển nghề nuôi cá tra trong vùng, phục vụ cho việc quy hoạch các vùng nuôi. Kết quả cho thấy
với nền nhiệt độ cao và ổn định (25,3 – 29,0 0C), lượng bốc hơi thấp hơn nhiều so với lượng mưa
nên các tỉnh ven sông Tiền sông Hậu có điều kiện thuận lợi phát triển tốt nuôi thủy sản với quy mô
tập trung, trong đó đặc biệt thích hợp cho đối tượng nuôi là cá tra. Mùa lũ ở các tỉnh ven sông Tiền
sông Hậu, với tổng lưu lượng trên 700 tỷ m3 nước, có gây khó khăn cho việc nuôi thủy sản tại các
vùng bị ảnh hưởng nhưng lại là điều kiện rất thuận lợi để tăng khả năng tự làm sạch của dòng sông.
Tương tự, nhờ chế độ bán nhật triều (lên xuống hai lần trong ngày) và biên độ triều lớn vào mùa khô
(2,5 – 3,0 m) nên khả năng trao đổi nước rất lớn, làm tăng khả năng làm sạch nước (khi lưu lượng
nước trên sông giảm thấp nhất). Sự xâm nhập mặn sâu vào nội địa đối với các vùng nhiễm mặn nhẹ
(dưới 4‰) hoặc vùng có độ mặn cao vào mùa kiệt nhưng lại ngọt trong mùa lũ, có thể được xem
là vùng có ưu thế hơn trong việc nuôi cá tra, so với các vùng ngọt hoàn toàn phía thượng lưu sông
Tiền, sông Hậu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá điều kiện khí hậu, thủy văn các tỉnh dọc sông Tiền và sông Hậu phục vụ nuôi cá tra
-220 km thì độ lớn của triều giảm đi 25%. Vào mùa kiệt, ở điểm cách cửa biển 200 km vẫn ghi nhận biên độ mực nước trên sông Cửu Long lên đến 1,4 m. Trên các sông rạch nhỏ, biên độ triều giảm dần (khoảng 3,5 lần so với cửa biển). Trong mùa lũ, ảnh hưởng của triều yếu đi, nhưng nó cũng là một yếu tố làm mực nước lũ tăng cao (Thanh et al., 2004; Nguyễn Ngọc Anh, 2011). Tốc độ truyền sóng triều ở sông Hậu trung bình khoảng 25 km/giờ. Lưu lượng triều đạt giá trị cực đại vào tháng 4, thời gian này sóng triều có thể lan đến Campuchia, đi qua đoạn Mỹ Thuận - Tân Châu (trên sông Tiền) và Cần Thơ - Châu Đốc (trên sông Hậu). Trong các tháng 2 và tháng 6 thì sự truyền thủy triều có giảm đi, triều chỉ có thể lên đến Campuchia khi xuất hiện kỳ nước cường trong chu kỳ 1/2 tháng. Trong chu kỳ năm, tác động triều ở biển Đông mạnh nhất vào tháng 12-1, rồi yếu đi trong các tháng 3-4, rồi mạnh lại vào tháng 5-7 và yếu đi trong tháng 8-9 dương lịch. Trên sông Tiền, đỉnh triều xuất hiện tại Tân Châu chậm hơn 4 - 6 giờ so với đỉnh triều ở cửa biển. Trên sông Hậu, đỉnh triều tại Châu Đốc cũng chậm hơn đỉnh triều ở biển Đông một thời gian tương tự. Đặc biệt tại Bắc Cần Thơ (trên sông Hậu) và Bắc Mỹ Thuận (trên sông Tiền) đỉnh triều chậm hơn hay có khi sớm hơn phía cửa sông khoảng 1 giờ. Hiện tượng này có thể do tác động của thủy triều vịnh Thái Lan hay từ Cà Mau lên (Lê Anh Tuấn, 2003). 3.2.4. Sự xâm nhập mặn ĐBSCL bị ảnh hưởng mặn bởi biển phía Đông và biển phía Tây. Do chế độ bán nhật triều không đều ở biển Đông nên việc truyền mặn từ các vùng biển này vào các cửa sông cũng theo nhịp điệu của quá trình triều: tại một vị trí cố định, trong ngày thường có 2 đỉnh mặn và 2 chân mặn, thường thì quá trình mặn chậm hơn quá trình mực nước khoảng 1-2 giờ, độ mặn cũng giảm dần từ cửa sông vào sâu trong nội địa. Vào cuối mùa lũ, khi nguồn nước từ thượng lưu về trong sông giảm dần, mặn từ biển bắt đầu lấn dần vào vùng cửa sông và theo triều xâm nhập vào sâu lên thượng lưu. Độ mặn lớn hơn 4‰ được xem là không thích hợp cho việc phát triển đối tượng nuôi cá tra. Các vùng dọc theo các nhánh hệ thống sông Cửu Long cách biển khoảng 20-35 km sẽ có đường đẳng mặn 4‰ quanh năm, cá biệt có năm có thể lấn sâu đến 50-60 km. Đi dọc theo hướng các nhánh sông Cửu Long, độ mặn giảm dần và tỉ lệ nghịch với khoảng cách đến biển Đông. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào lưu lượng nước phân bố giữa các nhánh sông cũng như chế độ lũ. Nhìn chung, mức độ xâm nhập mặn lớn nhất là vào tháng 4-5 hàng năm trên các nhánh sông và yếu nhất vào tháng 10. Từ tháng 6, do ảnh hưởng của sự gia tăng nước ngọt thượng nguồn vào những tháng đầu mùa lũ và mùa mưa tại đồng bằng, nước mặn bị đẩy ra xa vùng ven biển. 3.3. Thảo luận chung ĐBSCL là vùng có lượng bức xạ dồi dào, nền nhiệt độ cao cũng được duy trì ổn định (nhiệt độ không khí trung bình 25,3 - 29,0 0C), sự chênh lệch theo ngày, mùa, và các năm tương đối ít nên việc đa dạng hóa các đối tượng nuôi thủy sản có thể thực hiện liên tục và ổn định. So sánh với kết quả nghiên cứu ở các năm trước của Phạm Văn Đức và ctv (2003) với nhiệt độ không khí trung bình năm phổ biến từ 26,0 – 28,0 0C, kết quả nghiên cứu ở giai đoạn này nhiệt độ trung bình có khoảng biến động rộng hơn nhưng không có sự khác biệt đáng kể. Lượng mưa dồi dào của vùng (trung bình 1500 mm/năm/trạm) chính là nguồn cung cấp nước ngọt chính cho các vùng nuôi, kể cả cho 146 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 nước sinh hoạt lẫn nước phục vụ sản xuất, đặc biệt quan trọng cho các vùng nhiễm mặn có nguồn nước ngọt hạn chế hoặc vào mùa khô (như các vùng ven biển phía Tây và biển phía Ðông). Ngoài ra, độ ẩm trong vùng cao có thể giúp hạn chế việc thất thoát nước do bốc hơi ở các khu vực nuôi thủy sản. Nguồn nước cấp cho nuôi cá tra vùng ĐBSCL được lấy chủ yếu từ sông Tiền, sông Hậu và hệ thống kênh rạch nhánh của hai con sông này. Đối với việc phát triển nuôi cá tra cần chú ý đến đặc điểm rất quan trọng là chế độ triều vì biên độ dao động của thủy triều tác động cả về mặt môi trường nước lẫn mặt kinh tế. Biên độ triều càng lớn, khả năng tải chất thải của sông/kênh/rạch càng cao, đồng thời giảm được đáng kể chi phí cho việc cấp và thoát nước cho ao nuôi cá tra. Biên độ triều trong các hệ thống sông/kênh/rạch trong vùng chịu ảnh hưởng từ việc truyền triều ở vùng biển phía Đông và vùng biển phía Tây. Như vậy, xét về biên độ triều trong việc phát triển nuôi cá tra, các vùng dọc hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, mức độ thích hợp tốt đối với việc nuôi đối tượng này tỉ lệ nghịch với khoảng cách đến biển Đông, cụ thể: khu vực cách biển khoảng 100 km có biên độ triều thích hợp tốt cho nuôi cá tra cả trong mùa lũ và mùa kiệt, từ 100 đến 200 km có biên độ triều khá thích hợp cho nuôi cá tra trong mùa kiệt, còn khu vực trên 200 km thì mức độ thích hợp kém (Nguyễn Thanh Tùng, 2008). Vùng có các kênh trục ngang dẫn trực tiếp từ hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, ngoài việc xét khoảng cách đến biển Đông, mức độ thích hợp tốt đối với việc nuôi cá tra cũng tỉ lệ nghịch với khoảng cách đến hai con sông nói trên (Thanh et al., 2004). Sự xâm nhập mặn thường được xem là nguyên nhân ngăn cản sự phát triển mở rộng đối tượng nuôi cá tra các vùng ven biển dọc theo các nhánh sông của hệ thống sông Cửu Long (White, 2002). Vùng có nguồn nước nhiễm mặn vượt quá 4‰ có thể xem là yếu tố bất lợi cho việc phát triển nuôi đối tượng này. Đối với các vùng nhiễm mặn dưới 4‰ hoặc vùng có độ mặn cao vào mùa kiệt nhưng lại ngọt trong mùa lũ, lại là vùng được xem có ưu thế hơn trong việc nuôi cá tra, so với các vùng ngọt hoàn toàn phía thượng lưu sông Tiền, sông Hậu (Nguyễn Mạnh Hùng, 2008). Ưu thế này được thể hiện qua việc ít bị dịch bệnh ở đối tượng cá tra do môi trường nước mặn một thời gian có khả năng kìm hãm nhiều tác nhân gây bệnh cho đối tượng này (Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre, 2007; Phạm Thị Kim Oanh và Trương Hoàng Minh, 2011). Điều đó có thể được minh chứng bằng kết quả thực tế của Trần Quốc Bảo và ctv (2010) như sau: (i) Năng suất bình quân thấp (152-167 tấn/ha) thuộc khu vực nuôi cá tra nguồn nước bị ảnh hưởng nhiễm mặn tại hai tỉnh Trà Vinh và Bến Tre; (ii) Các khu vực nuôi cá tra phải bơm cấp nước thuộc thượng nguồn sông Tiền, sông Hậu (An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang) có năng suất xấp xỉ mức bình quân chung 200 tấn/ha; (iii) Ở vùng nuôi thay nước theo thủy triều tại hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long lại có năng suất bình quân cao nhất, đạt khoảng 300 tấn/ha. Hàng năm sông Cửu Long chuyển trên 700 tỷ m3 nước ra biển Đông, với lưu lượng bình quân là 18.500 m3/s. Kết quả này khá tương đương với các kết quả nghiên cứu của Hien (1998) và Thanh et al. (2004) ở những năm trước. Các hoạt động của con người, sản xuất nông nghiệp và nghề nuôi cá trên sông Tiền và sông Hậu thải ra một lượng lớn chất thải vào dòng sông. Tuy nhiên, với lưu lượng lớn của sông Cửu Long, nhất là trong mùa lũ đã giúp cho khả năng tự làm sạch môi trường và rửa trôi (sức tải môi trường) của dòng sông Tiền và sông Hậu là rất lớn. 147TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Như vậy, với điều kiện chế độ thủy văn thuận lợi, lưu lượng nước lớn, dòng chảy mạnh trong mùa lũ, chế độ bán nhật triều biển Đông với biên độ dao động lớn trong mùa khô đã tạo nên khả năng tự làm sạch môi trường rất lớn cho hệ thống sông Tiền và sông Hậu. Do đó, có thể định hướng phát triển các vùng nuôi cá tra ra vùng gần cửa sông (Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ, Tiền Giang, Sóc Trăng) nhằm tận dụng khả năng trao đổi nước nhờ thủy triều vào mùa khô và lưu lượng lớn của sông Cửu Long vào mùa lũ (Nguyễn Mạnh Hùng, 2008). IV. KẾT LUẬN Với nền nhiệt độ cao và ổn định (25,3 – 29,0 0C), lượng bốc hơi thấp hơn nhiều so với lượng mưa nên các tỉnh ven sông Tiền sông Hậu có điều kiện thích hợp cho phát triển nuôi cá tra. Tổng lượng mưa bình quân năm trong vùng là khoảng 1.500-1.700 mm, lượng mưa tập trung 90% vào các tháng mùa mưa (tháng 5–11) và tập trung cao điểm vào tháng 8-10 (với 15- 25 ngày mưa/tháng) với lượng mưa bình quân tháng khoảng 250 – 350 mm. Hàng năm sông Cửu Long chuyển trên 700 tỷ m3 nước ra biển Đông, với lưu lượng bình quân là 18.500 m3/s. Lưu lượng nước khổng lồ của sông Cửu Long đổ về ĐBSCL, nhất là trong mùa lũ, có gây khó khăn cho việc nuôi thủy sản tại các vùng bị ảnh hưởng nhưng lại là điều kiện rất thuận lợi để tăng khả năng tự làm sạch của dòng sông. Nhờ chế độ bán nhật triều và biên độ triều lớn vào mùa khô (2,5 – 3,0 m) nên khả năng trao đổi nước rất lớn, làm tăng khả năng làm sạch nước (khi lưu lượng nước trên sông giảm thấp nhất). Sự xâm nhập mặn sâu vào nội địa đối với các vùng nhiễm mặn nhẹ (dưới 4‰) hoặc vùng có độ mặn cao vào mùa kiệt nhưng lại ngọt trong mùa lũ, có thể được xem là vùng có ưu thế hơn trong việc nuôi cá tra, so với các vùng ngọt hoàn toàn phía thượng lưu sông Tiền và sông Hậu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Ngọc Anh, 2011. Quy hoạch thủy lợi tổng hợp Đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng. BCKH Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, 147 trang. Trần Quốc Bảo, Lê Hồng Phước, Nguyễn Thanh Trúc, Đặng Ngọc Thùy, Đỗ Quang Tiền Vương, Trương Thanh Tuấn, Thới Ngọc Bảo, Lưu Đức Điền, Trần Minh Thiện, Phạm Thế Vãn, 2010. Quan trắc, cảnh báo môi trường và dịch bệnh thủy sản một số vùng nuôi thủy sản các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ - Năm 2010. BCKH Viện NCNTTS II, 155 trang. Phạm Văn Ðức, Nguyễn Lê Hạnh, Nguyễn Thế Phong, 2003. Khí hậu khu vực Nam Bộ và quy luật xuất hiện lũ ở ÐBSCL liên quan đến phát triển nuôi trồng thủy sản. Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long, NXB Nông Nghiệp, tr.82-95. Nguyễn Mạnh Hùng, 2008. Ứng dụng công nghệ GIS và viễn thám trong nghiên cứu xây dựng các phương án quy hoạch, phát triển nuôi trồng thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Luận án Tiến sỹ Sinh học, Viện Sinh học nhiệt đới, 245 trang. Trần Hoàng Kim, Lê Thu, Bùi Đức, 2001. Đồng bằng sông Cửu Long – Hiện trạng và Tiềm năng. NXB Thống kê, Hà Nội, 260 trang. Dương Nhựt Long, Nguyễn Anh Tuấn và Lê Sơn Trang, 2004. Nuôi cá tra (Pangasius hypothalmus 148 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 sauvage) thương phẩm trong ao đất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí nghiên cứu khoa học 2004, chuyên ngành thủy sản, Đại học Cần Thơ, tr. 65-73. Nguyễn Xuân Lý, Nguyễn Chu Hồi, Ðặng Khánh, 2005. Tổng quan về chiến lược bảo vệ ngành thủy sản đến năm 2020. NXB Nông Nghiệp, Hội thảo toàn quốc về bảo vệ môi tường và nguồn lợi thủy sản, tr.41-53. Phạm Thị Kim Oanh, Trương Hoàng Minh, 2011. Thực trạng nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus sauvage, 1878) có liên kết và không liên kết ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ 2011:20b, tr.48-58. Lê Anh Tuấn, 2003. Đặc điểm chế độ khí tượng thuỷ văn vùng Đồng bằng sông Cửu Long. BCKH Đại học Cần Thơ, 28 trang. Nguyễn Thanh Tùng, 2008. Quy hoạch phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 và định hướng 2020. BCKH Phân Viện Quy Hoạch Thủy Sản Phía Nam, 136 trang. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre, 2007. Nuôi thử nghiệm thành công cá tra vùng mặn. http:// www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_cont ent&task=view&id=2673&Itemid=40 [ngày truy cập 16/07/2011]. Hien, N. X., 1998. Hydraulic modelling and flood control planning in the Mekong Delta. Proceedings of the Regional Workshop: Flood management and mitigation in the Mekong River Basin, Vientiane, LAO PDR, March 19th–21st 1998. http:// www.fao.org/docrep/004/ac146e/AC146E03. htm#chIII.4 [ngày truy cập 14/08/2011]. Pham Bach Viet, Lam Dao Nguyen, Ho Dinh Duan, 2004. Detecting changes in riverbank of Mekong River, Vietnam, GIS Development, 6/10: 33-35, The Asian GIS Monthly. Schaefer, D., 2007. Recent Climate Change and possible impacts on Agriculture in the Mekong Delta, Vietnam. German Vietnam - Seminar in Ho Chi Minh City, Vietnam, on Sustainable Utilisation and Management of Land and Water Resources in the Mekong Delta, Vietnam. Thanh, T.D., Saito, Y., Huy, D.V., Nguyen, V.L., Ta, T.K.O. and Tateishi, M., 2004. Regimes of human and climate impacts on coastal changes in Vietnam. Reg. Environ. Change, vol.4, pp.49–62. White, I., 2002. Water Management in the Mekong Delta: Changes, Conflicts and Opportunities. Technical Documents in Hydrology, No. 61, UNESCO, Paris. 149TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 EVALUATION OF CLIMATIC AND HYDROLOGICAL CONDITIONS IN THE PROVINCES ALONG MEKONG AND BASSAC RIVER FOR CATFISH FARMING Luu Duc Dien1, Nguyen Dinh Hung2 ABSTRACT This study focused on collecting and analysing data on climate and hydrology of the provinces along Mekong and Bassac rivers (in 2006-2010) to assess the impact of catfish farming on the re- gion, for planning farming areas. The results showed that high and stable temperature (25.3 - 29.0 0C), low evaporation as opposed to rainfall, the provinces along Mekong and Bassac river had good conditions for centralized intensive aquaculture development, which was particularly suitable for catfish farming. Annual flooding season in the provinces along Mekong and Bassac rivers had a total flow of more than 700 billion m3 of water, making it difficult for aquaculture in the affected areas, but this is favourable condition to increase self-cleaning of the rivers. Similarly, thanks to the semi- diurnal mode (twice a day) and high tidal amplitude in the dry season (2.5 - 3.0 m), the capability of water exchange was extremely high, increasing the ability to produce clean water (when water flow in the rivers reduced to the lowest level). The intrusion of seawater into slight salinity interior (less than optimum 4 ‰), or areas with high salinity in the dry season but freshness in the flood season, probably has the advantage for catfish farming compared to the totally freshwater upstream of Mekong and Bassac river. Keywords: Bassac river, catfish, climate, hydrology, Mekong river Người phản biện: TS. Nguyễn Minh Niên Ngày nhận bài: 11/9/2013 Ngày thông qua phản biện: 24/9/2013 Ngày duyệt đăng: 15/10/2013 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No.2. Email: luuducdienria2@yahoo.com 2 Research Institute for Aquaculture No.2
File đính kèm:
- danh_gia_dieu_kien_khi_hau_thuy_van_cac_tinh_doc_song_tien_v.pdf