Đặc điểm dinh dưỡng cá Úc chấm phân bố dọc theo hạ lưu sông Hậu
TÓM TẮT Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng cá úc chấm (Arius maculatu) được thực hiện từ tháng 11 năm 2017 đến tháng 11 năm 2018. Mẫu được thu bằng lưới cào với chu kỳ 2 tháng thu 1 lần dọc theo cửa sông Hậu từ Cái Cui đến Trần Đề và Định An. Phổ thức ăn được xác định thông qua chỉ số mức độ quan trọng tương đối (Index of Relative Importance - IRI) theo địa điểm, thời gian thu mẫu và kích cỡ cá. Mẫu cá nhỏ và cá thành thục được thu để phân tích thành phần thức ăn trong ruột cá, 25 mẫu cho mỗi giai đoạn. Thành phần thức ăn khác nhau sẽ được ghi nhận từ dạ dày cá trong thời gian nghiên cứu. Cá úc chấm là loài ăn tạp thiên về động vật, thức ăn chủ yếu của chúng gồm: giáp xác lớn, giáp xác chân chèo, hai mảnh vỏ, ốc, giun nhiều tơ và cá con. Trong đó, thành phần thức ăn chiếm ưu thế của cá là giáp xác lớn như tôm, cua chiếm tỷ lệ 64,35% với chỉ số IRI là 22,91% và giáp xác chân chèo chiếm 18,81% với IRI là 28,58%. Hai mảnh vỏ, ốc, giun nhiều tơ và cá con là những thức ăn chiếm tỷ lệ thấp. Ngoài ra, cá ở giai đoạn nhỏ (Lm < 12="" cm)="" thì="" thức="" ăn="" đa="" dạng="" hơn="" cá="" trưởng="" thành="" (lm="" ≥="" 12="">

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm dinh dưỡng cá Úc chấm phân bố dọc theo hạ lưu sông Hậu
kích cỡ là 50 mẫu
và phân theo mùa là 44 mẫu/mùa khô và 55 mẫu/
mùa mưa với chu kỳ thu mẫu là 2 tháng thu 1 lần.
Mẫu sau khi thu được cố định bằng dung dịch
formol 10% và đưa về phòng thí nghiệm Nguồn lợi
Thủy sản, Khoa Thủy Sản, Trường Đại học Cần Thơ
phân tích. Phương pháp xác định tính ăn của cá
dựa vào hình thái, cấu tạo của ống tiêu hóa: răng,
miệng, lược mang, chiều dài ruột và các thành phần
thức ăn có trong ống tiêu hóa. Phổ thức ăn của cá
được phân tích theo mùa vụ và chiều dài thành thục
Lm. Trong đó, Lm được xác định bằng phân tích
hồi qui dựa trên công thức P = 1/{1 + e-r*(L - Lm)}, sau
khi phân tích Lm được xác định là 12 cm. Từ đó
ta có thể chia cá thành 2 giai đoạn: cá chưa thành
thục Lm < 12 cm tương ứng với trọng lượng cá là
0,85 g - 25,5 g và cá thành thành thục Lm ≥ 12 cm
là 16,7 g - 72,52 g. Ngoài ra, tính ăn của cá được xác
định bằng 2 phương pháp:
- Phương pháp tần số xuất hiện:
T= [số lượng dạ dày hiện diện thức ăn (a)/tổng số
cá thể quan sát] ˟ 100.
Trong đó: T là TSXH thức ăn loại a (%).
- Phương pháp trọng lượng: Trọng lượng của mỗi
loại thức ăn được qui đổi ra tỷ lệ phần trăm (%) tính
trên tổng trọng lượng của mỗi loại thức ăn có trong
dạ dày của cá.
Kết hợp giữa 2 phương pháp số lượng và
khối lượng để tính chỉ số IRI (index of Relative
importance), theo công thức của Cortes (1997):
IRI% = IRIi/ IRI ˟ 100
Trong đó, IRI là chỉ số tương quan của từng nhóm
thức ăn đối với cá thể nghiên cứu và được tính bằng
công thức: IRI = (N% + W%) ˟ O%, trong đó: N% là
phần trăm từng nhóm thức ăn trong ống tiêu hóa tính
theo số lượng; W% là phần trăm từng nhóm thức ăn
trong ống tiêu hóa tính theo trọng lượng; O% là tần số
xuất hiện.
Thành phần thức ăn tự nhiên trong ống tiêu hóa
được xác định theo Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh
Hải (2001), Nguyễn Văn Khôi (2001) và Shirota (1966).
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11/2017 đến
11/2018 dọc theo cửa sông Hậu từ Cái Cui đến Trần
Đề và Định An.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm hình thái cấu tạo ống tiêu hóa của
cá úc chấm
Kết quả quan sát cho thấy miệng cá úc chấm
to và co duỗi được. Cấu tạo miệng dưới từ đó cho
thấy cá có thể ăn tầng đáy. Răng cũng thể hiện phần
nào đặc tính dinh dưỡng của cá. Răng cá úc chấm
phân bố ở hàm trên và xương hầu. Răng hàm nhọn
và mịn, xếp thành nhiều hàng. Có một mảng răng
nhọn hình nón ở hàm trên. Lược mang cá úc chấm
thưa, ngắn và nhọn xếp thành 1 hàng trên cung
mang và hướng vào xoang miệng hầu. Trên mỗi
cung mang của cá úc chấm có 1 hàng lược mang.
Nhiệm vụ của lược mang là lọc, giữ thức ăn và bảo
vệ các tia mang phía sau. Từ dạng lược mang cũng
có thể cho thấy cá úc chấm có khả năng ăn động vật
nhiều hơn (Hình 1).
Hình 1. Hình dạng mang và răng cá úc chấm
123
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Thực quản của cá úc chấm có dạng hình ống, to,
ngắn, vách dày, mặt trong có nếp gấp nên có thể co
dãn dễ dàng, do đó cá có thể ăn được thức ăn có
kích thước vừa với cỡ miệng cá. Dạ dày và ruột cá
úc chấm có sự phân biệt rõ ràng. Dạ dày và ruột dài,
có vách dày, có nếp gấp tạo độ đàn hồi giúp co bóp,
nhào trộn thức ăn dễ dàng (Hình 2).
Hình 2. Cấu tạo ruột, dạ dày và thực quản
của cá úc chấm
3.2. Phổ thức ăn của cá úc chấm qua các đợt
khảo sát
Thành phần thức ăn chính của cá úc chấm tương
đối rộng, gồm 6 nhóm thức ăn chính: giáp xác lớn,
giáp xác chân chèo, hai mảnh vỏ, ốc, giun nhiều tơ
và cá con (Hình 3). Tuy nhiên, để phân tích phổ thức
ăn của cá úc chấm ngoài việc xác định bằng phương
pháp tần số xuất hiện thì phương pháp khối lượng
cũng quan trọng, do mỗi loại thức ăn khác nhau sẽ
có khối lượng khác nhau.
Bảng 1. Phổ thức ăn của cá úc chấm
STT Thành phần thức ăn
Tần số
xuất
hiện
(%)
Khối
lượng
(%)
Chỉ
số IRI
(%)
1 Giáp xác lớn 64,35 21,06 22,91
2 Giáp xác chân chèo 18,81 11,18 28,58
3 Hai mảnh vỏ 9,9 5,85 0,93
4 Ốc 9,9 2,29 0,35
5 Giun nhiều tơ 2,97 6,75 0,29
6 Cá nhỏ 2,97 0,31 0,02
Theo Cortés (1997) chỉ số tương quan IRI là một
trong những phương pháp quan trọng để tính mức
độ lựa chọn thức ăn, phương pháp được xác định
dựa trên sự kết hợp tần số xuất hiện và phần trăm
khối lượng của mỗi loại thức ăn. Cụ thể, giáp giáp
xác lớn và xác chân chèo là hai loại thức ăn được cá
úc chấm ưu tiên chọn lựa với chỉ số IRI là 22,91% và
28,58%. Còn lại là hai mảnh vỏ, ốc, giun nhiều tơ và
cá con cũng được tìm thấy trong phổ thức ăn của cá
úc chấm nhưng với chỉ số IRI rất thấp, điều này cho
thấy các loại thức ăn này chỉ là thức ăn ngẫu nhiên
của cá (Bảng 1).
Hình 3. Một số loại thức ăn của cá úc chấm
Ghi chú: Hình được chụp dưới kính hiển vi sôi nổi, vật kính 4,5x.
124
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Phổ thức ăn của cá được xác định bằng nhiều
phương pháp khác nhau tùy theo sự hiện diện của
các loại thức ăn. Bằng phương pháp tần số xuất hiện
cho thấy thức ăn chủ yếu của cá úc chấm là giáp xác
lớn (tôm, cua) chiếm tỷ lệ cao nhất 64,35%, kế đến là
giáp xác chân chèo chiếm 18,81%, ốc và hai mảnh vỏ
chiếm 9,9% và thấp nhất là giun nhiều tơ và cá con
là 2,97%. Cá phân bố ở vùng khác nhau thì tập tính
ăn mồi của cá cũng khác nhau. Cụ thể, ở vùng biển
Malaysia thức ăn chính của cá úc chấm là động vật
phù du và thực vật phù du, ngoài ra trong thức ăn
cũng có giáp xác, cá, giun nhiều tơ (Manikandarajan
et al., 2014).
3.3. Thành phần thức ăn cá úc chấm theo mùa
bằng phương tần số xuất hiện
Kết quả phân tích cho thấy các loại thức ăn trong
mùa mưa và mùa khô cũng tương tự nhau. Thức
ăn chính của cá úc chấm là giáp xác lớn với tần số
xuất hiện là 59,09% (mùa khô) và 70,91 (mùa mưa).
Kế đến là giáp xác chân chèo chiếm tỷ lệ khá cao
trong mùa khô là 22,73% và mùa mưa là 16,36%. Tuy
nhiên, sự hiện diện của cá con (5,45%) trong dạ dày
cá úc chấm chỉ có trong mùa mưa và thức ăn là giun
nhiều tơ (6,82%) chỉ xuất hiện trong mùa khô. Điều
này chứng tỏ thức ăn cá còn tùy thuộc vào các yếu tố
môi trường, bởi mùa mưa là mùa sinh sản của nhiều
loài cá nên cá con rất phong phú, ngược lại mùa khô
thì mật độ cá con rất ít. Ngoài ra, cá con, giun nhiều
tơ, hai mảnh vỏ và ốc chiếm tỷ lệ rất ít trong thành
phần thức ăn của cá úc chấm, cho thấy đây chỉ là các
loại thức ăn bổ sung và thức ăn chính ở cả hai mùa
vẫn là giáp xác lớn và giáp xác chân chèo.
Hình 4. Thành phần thức ăn cá úc chấm theo mùa
Những thay đổi trong lựa chọn thức ăn giữa
các mùa hoàn toàn khác nhau, nó rất hữu ích cho
các nghiên cứu về sự di cư của cá. Để chứng minh
điều này Harmelin-Vivien và cộng tác viên (1989)
đã nghiên cứu tính ăn của các loài cá biển phân bố
ở thảm cỏ biển Địa Trung Hải. Kết quả cho thấy
giun nhiều tơ là thức ăn phong phú nhất và chiếm
tỷ lệ 100% từ tháng 8 đến tháng 12, nhưng tháng 1
thì lại rất hiếm gặp trong thức ăn cá. Một nghiên
cứu khác ở vùng biển Đông Nam Ấn Độ, từ tháng
6 đến tháng 12 thức ăn chủ yếu của cá úc chấm
là giáp xác lớn như: tôm, cua (Manikandarajan
et al., 2014).
3.4. Thành phần thức ăn cá úc chấm theo kích
thước bằng phương tần số xuất hiện
Tùy theo các giai đoạn phát triển của cá khác
nhau thì sự lựa chọn thức ăn cá cũng khác nhau.
Giáp xác lớn chiếm tỷ lệ cao nhất trong thành phần
thức ăn của cá ở cả giai đoạn thành thục (67,9%)
và chưa thành thục (55,56%). Cá úc chấm đã thành
thục (Lm ≥ 12 cm) không ăn cá nhỏ và giun nhiều
tơ, nhưng lại ăn giáp xác chân chèo, hai mảnh vỏ
và ốc nhiều hơn cá chưa thành thục (Lm < 12 cm).
Ngược lại, cá con và giun lại hiện diện trong dạ dày
cá chưa thành thục nhưng chiếm tỷ lệ rất ít (3,7%).
Đây cũng chỉ là thức ăn bổ sung không phải là thức
ăn chính của cá úc chấm (Hình 6).
Hình 5. Hình dạng kích cỡ cá úc chấm
125
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Kết quả trên cho thấy thành phần loại thức ăn
giữa các giai đoạn phát triển của cá có sự thay đổi
không lớn. Nhìn chung về thành phần loài thức ăn
có trong dạ dày cá ở nhóm chưa thành thục phong
phú hơn so với nhóm thành thục. Đối với cá con và
giun nhiều tơ hoàn toàn không tìm thấy trong dạ
dày ở nhóm thành thục, nhưng lại tìm thấy ở nhóm
cá chưa thành thục. Vì cá con và giun nhiều tơ có
kích thước nhỏ và là loại thức ăn rất thích hợp cho
động vật thủy sản ở giai đoạn nhỏ, chưa thành thục.
Cá thành thục có kích thước, cỡ miệng lớn hơn và
chế độ dinh dưỡng khác nên chúng không là loại
thức ăn được cá ưu tiên chọn lựa mà thay vào đó là
các loại thức ăn có kích thước lớn hơn.
Hình 6. Thành phần khối lượng thức ăn của cá úc chấm theo kích cỡ
3.5. Chỉ số tương quan IRI theo kích cỡ
Để đánh giá tính ăn của cá chính xác hơn, tác
giả Cortés (1997) đã đưa ra chỉ số tương quan IRI,
phương pháp này dựa trên số lượng, khối lượng và
tần số xuất hiện thức ăn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy thức ăn chính của cá úc chấm là giáp xác lớn
và giáp xác chân chèo ở cả giai đoạn nhỏ và thành
thục. Trong đó, ở giai đoạn chưa trưởng giáp xác
chân chèo là thức ăn chính với IRI là 60,16% và lựa
chọn thứ 2 là giáp xác lớn với IRI = 37,25%. Tuy
nhiên, 2 thức ăn này lại không khác biệt trong thành
phần thức ăn của cá thành thục tương ứng với chỉ số
tương quan IRI = 48,77% (giáp xác chân chèo) và IRI
= 43,41% (giáp xác lớn), còn lại như hai mảnh vỏ, ốc,
giun nhiều tơ và cá nhỏ thì chiếm tỷ lệ rất thấp. Đặc
biệt, đối với cá thành thục thì không có hiện diện
của giun nhiều tơ và cá con (Bảng 2).
Bảng 2. Chỉ số tương quan IRI cá úc chấm
STT Loại thức ăn
Chỉ số tương quan IRI
(%)
Cá chưa
thành thục
(L < 12 cm)
Cá
thành thục
(L ≥ 12 cm)
1 Giáp xác lớn 37,25 43,41
2 Giáp xác chân chèo 60,16 48,77
3 Ngành giun 1,15 0,00
4 Hai mãnh vỏ 0,89 6,41
5 Cá nhỏ 0,07 0,00
6 Ốc 0,48 1,41
Một số nghiên cứu về cá úc khác cũng cho thấy
sự khác biệt về lựa chọn thức ăn giữa các giai đoạn.
Ở vùng vịnh phía Nam Mexico, chế độ ăn của loài cá
úc Arius felis thay đổi theo kích thước. Thức ăn của
cá ở giai đoạn chưa trưởng thành (Lm < 20 cm) chủ
yếu là giáp xác nhỏ như động vật lưỡng cư, tôm, cua
và động vật thân mềm. Ngược lại, thức ăn chính ở
giai đoạn trưởng thành là những con mồi lớn như cá
(Yaliez- Arancibia and Lara-Domínguez, 1988).
IV. KẾT LUẬN
Cá úc chấm (Arius maculatus) là loại cá có miệng
to và co duỗi được, răng mịn và nhọn. Cá có thực
quản, dạ dày và ruột dài, có vách dày với nhiều nếp
gấp ở mặt trong. Cấu tạo cơ quan tiêu hóa phù hợp
với loài cá ăn tạp thiên về động vật.
Phổ thức ăn của cá úc chấm gồm có giáp xác lớn,
giáp xác chân chèo, hai mảnh vỏ, giun nhiều tơ, ốc
và cá con. Tuy nhiên, thức ăn và tập tính ăn của cá
khác nhau tùy theo thời gian, mùa vụ, kích cỡ của cá
và các yếu tố môi trường. Trong mùa mưa thức ăn cá
úc chấm có sự xuất hiện của cá con và giun nhiều tơ
chỉ xuất hiện trong mùa khô. Thành phần thức ăn tại
khu vực cửa sông thì đa dạng hơn khu vực trong cửa
sông, cá giai đoạn chưa thành thục thì ăn nhiều loại
thức ăn hơn cá đã thành thục. Nhưng sự khác nhau
đó chỉ thể hiện ở các loại thức ăn bổ sung như: hai
mảnh vỏ, ốc, giun nhiều tơ và cá con. Thức ăn chính
cá úc chấm vẫn là giáp xác chân chèo và giáp xác lớn.
126
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả chân thành cảm ơn dự án ODA
thuộc chương trình F-3 do Trường Đại học Cần Thơ
quản lý đã hỗ trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu này
(Tên dự án: Quản lý và bảo tồn Nguồn lợi Thủy sản,
mã số F-3).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Khôi, 2001. Động vật chí Việt Nam.
Fauna of Vietnam. Tập 9, Phân lớp Chân mái chèo -
Copepoda, biển. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật,
385 trang.
Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải, 2001. Động vật chí
Việt Nam. Fauna of Vietnam. Tập 5, Giáp xác nước
ngọt. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 239 trang.
Cortés, E, 1997. A critiel review of methods of studying
fish feeding based analysis of stomach contents:
application to elasmobranch fishes. Can. J. Fish
Aqua. Sci., 54:726-738.
Harmelin-Viven, M.L., Kaim-Malka, R.A., Ledoyer,
M. and Jacob-Abraham, S.S, 1989. Food partitioning
among scorpaenid fishes in Mediterranean seagrass
beds. J. Fish. Biol., 34: 715-734.
Manikandarajan,T., Ramamoorthy, K., Srilatha,
G., Sankar, G and Kathirvel, K, 2014. Stomach
content analysis of Catfish -Arius maculatus
(Thunberg, 1792) From Parangipettai Coast, South
East Coast of India. Asian Journal of Biomedical and
Pharmaceutical Sciences, 04 (38); 2014; 50-56.
Mazlan, A.G., Abdullah, S., Shariman M.G. and
Arshad, A, 2008. On the Biology and Bioacoustic
Characteristic of Spotted Catfish Arius maculatus
(Thunberg 1792) from the Malaysian Estuary.
Research Journal of Fisheries and Hydrobiology, 3(2):
63-70.
Shirota, A, 1966. The plankton of South Viet Nam:
Freshwater and marine planktons. Oversea. Technical
Cooperation Agency. Japan, 446pp.
Tran, D.D., K. Shibukawa, P.T. Nguyen, H.P. Ha, L.X.
Tran, H.V. Mai and K. Utsugi, 2013. Mô tả định
Loại Cá Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Fishes of the Mekong Detal, Vietnam. Can Tho
University Publishing House, Can Tho. 174 pages.
Yaliez- Arancibia, A and Lara-Domínguez, A.L, 1988.
Ecology of three sea catfishes (Ariidae) in a tropical
coastal ecosystem - Southern Gulf of Mexico. Marine
ecology - Progress, 49: 215-230.
Nutritional characteristics of spotted catfish from Hau river, Mekong Delta
To Thi My Hoang, Vo Thanh Toan, Tran Dac Dinh
Abstract
Study on nutritional characteristics of Spotted Catfish (Arius maculatus) was conducted from November 2017 to
November 2018. Samples were collected by trawling nets along Hau estuary from Cai Cui, to Tran De and Dinh
An estuaries in every two months. The diet spectrum was determined using an Index of Relative Importance –
IRI in relation to locations, sampling periods and fishes size class. Immature and mature fish were collected for
feed contents analysis, 25 samples for each stage. The variation feed contents were recorded from the stomach of
A. maculatus during the study periods. Arius maculatus are omnivorous fish, which are predominantly animal-
based, their main feed contents include crustacean, copepod, bivalvia, snail, polychaete and small fish. In particular,
the predominant feed component of fish is large crustaceans such as shrimp, crab, accounting for 64.35% with
IRI=22.91% and copepods accounting for 18.81% with IRI=28.58%. Shellfish, snails, polychaete and small fishes are
low-proportioned in gut contents. In addition, the food ingredients of juvenile fishes (Lm < 12 cm) are more diverse
than adult fishes (Lm ≥ 12 cm).
Keyword: Spotted Catfish, Arius maculatus, nutrition, Hau river, estuary, Mekong delta
Ngày nhận bài: 10/5/2019
Ngày phản biện: 4/6/2019
Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Kim
Ngày duyệt đăng: 14/6/2019
File đính kèm:
dac_diem_dinh_duong_ca_uc_cham_phan_bo_doc_theo_ha_luu_song.pdf

