Chuỗi giá trị tôm sú Quảng Canh ở vùng Tây Nam Bộ
TÓM TẮT
Nghiên cứu đã được thực hiện dựa vào cách tiếp cận liên kết chuỗi giá trị (CGT) valuelinks
của GTZ (Deutsche Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit – Đức) năm 2008, thông qua
các cuộc khảo sát tất cả các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị tôm sú tại 4 tỉnh Cà Mau, Bạc
Liêu, Sóc Trăng và Kiên Giang. Cụ thể đã khảo sát 67 đại lý và trang trại cung cấp con giống, thức
ăn và thuốc thủy sản; 339 hộ nuôi tôm sú theo hình thức quảng canh cải tiến (QCCT); 53 thương
lái và chủ vựa; 8 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu (DNCBXK) và 54 chuyên gia trong ngành, cán
bộ kỹ thuật và lãnh đạo các địa phương. Hai công cụ được sử dụng chính trong nghiên cứu này là
lập sơ đồ CGT và phân tích kinh tế chuỗi. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 khâu và 5 kênh phân
phối trong CGT tôm sú ở vùng Tây Nam Bộ (TNB). Trong đó, tôm sú phần lớn được tiêu thụ qua
kênh phân phối: Hộ nuôi Thương lái DNCBXK Người tiêu dùng nước ngoài (xuất khẩu).
Có 3 sản phẩm tôm sú xuất khẩu chính, bao gồm: tôm sú xuất khẩu nguyên con đông lạnh (HOSO),
tôm sú xuất khẩu bỏ đầu, đông lạnh (HLSO) và tôm sú xuất khẩu bỏ đầu, lột vỏ, còn đuôi (PTO).
Trong đó, tôm PTO tạo được giá trị gia tăng và lợi nhuận cao nhất. Nhìn chung, phân phối lợi
nhuận giữa các tác nhân tham gia trong CGT chưa thực sự hợp lý, theo hướng bất lợi cho các hộ
nuôi. Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, cải thiện kênh phân phối thông qua các hoạt động
liên kết ngang và liên kết dọc, cũng như cắt giảm chi phí sản xuất tôm nguyên liệu là hai giải pháp
hữu hiệu để nâng cấp CGT tôm sú ở vùng TNB.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuỗi giá trị tôm sú Quảng Canh ở vùng Tây Nam Bộ
Nông dân Thương lái DNCBXK Tiêu dùng (Xuất khẩu/nội địa) chủ yếu TS được tiêu thụ qua kênh xuất khẩu. Trong quá trình hoạt động của các tác nhân tham gia trong 5 khâu của CGT có sự hỗ trợ thường xuyên của Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) về kỹ thuật và tổ chức sản xuất cho các tác nhân tham gia trong khâu đầu vào và khâu sản xuất. Hình 2. Sơ đồ CGT tôm sú nuôi quảng canh cải tiến 4.2. Mô tả chức năng chuỗi giá trị Chức năng cung cấp đầu vào (i) Cơ sở cung cấp giống: Các cơ sở cung cấp giống thường ở hai dạng là trại sản xuất giống và đại lý bán giống. Ngoài ra còn có những người bán con giống dạo, họ chở trong những thùng xốp hoặc trong những túi ny-lon (có bơm oxy) và chở đi phân phối dạo. Theo cách bán này, giá con giống thường được định với giá rẻ, và theo thông tin của một số hộ nuôi, việc mua tôm giống dạng này lại thành công. Trong khi đó, mua tôm giống tại các trại giống hoặc điểm phân phối giống thì lại không thành công. Do đó, phần lớn nông dân vẫn có thái độ nghi ngờ về chất lượng con giống tại các trại giống nói chung. Phần lớn nông hộ mua giống thường tin tưởng ở các Doanh nghiệp hoặc những trại giống uy tín như: Việt Úc, Minh Phú, Âu Vững..hoặc những nguồn giống tôm ở Bạc Liêu hoặc có nguồn gốc từ Miền Trung. Nhưng đa phần nông hộ chọn giống giá rẻ. (ii) Đại lý thức ăn và thuốc TYTS: Các hộ nuôi tôm cá thể được các đại lý bán thức ăn và thuốc thủy sản cho tín dụng (người nuôi sau khi thu hoạch sẽ thanh toán tiền cho đại lý). Có thể nói phần lớn đại lý thức ăn và thuốc TYTS là Nguyễn Phú Son và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 56-64 61 người cung cấp tín dụng chủ yếu cho hộ nuôi. Họ rất thận trọng để chọn hộ đầu tư, và thường đầu tư khi tôm nuôi được từ 1,5 tháng đến 2 tháng. Ngoài ra, một số đại lý thức ăn và thuốc TYTS còn tìm những nơi cung cấp giống chất lượng để mua và cung cấp con giống cho những hộ nuôi mà họ có đầu tư thức ăn và thuốc TYTS. Các đại lý cung cấp thức ăn và thuốc thủy sản ngoài chức năng cung cấp đầu vào cho các hộ nuôi, còn đảm nhận thêm chức năng tư vấn kỹ thuật nuôi và phòng trị bệnh tôm cho người nuôi để góp phần vào việc nuôi tôm thành công của hộ nuôi, có như vậy mới bảo đảm việc thu hồi lại vốn đầu tư cho nông hộ. Chức năng sản xuất Tham gia vào chức năng sản xuất hầu như chỉ có các hộ nông dân tham gia dưới hình thức nuôi riêng lẻ là chủ yếu, với quy mô diện tích bình quân khoảng 1 ha, thì hộ nuôi tôm sú cung cấp cho chuỗi khoảng 352 kg/ha. Có một số hộ nuôi tham gia vào các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã để nuôi và cung cấp tôm nguyên liệu cho các thương lái, đại lý, các CSCB và DNCBXK. Tuy nhiên, tính chất hợp tác giữa các hộ nuôi còn rất đơn giản, chủ yếu là chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, sử dụng chung đường nước và áp dụng kỹ thuật nuôi được hỗ trợ từ các chương trình, dự án trong và ngoài nước. Có một số tổ hợp tác và hợp tác xã đã liên kết được với các doanh nghiệp, đại lý cung cấp đầu vào và thu mua sản phẩm đầu ra, tuy nhiên số tổ chức kinh tế hợp tác này còn rất ít và năng lực liên kết của họ cũng còn rất yếu kém. Chức năng thu gom, phân loại Chức năng này chủ yếu là thương lái và đại lý thu mua. Đối với mô hình nuôi tôm quảng canh, thì thương lái đóng vai trò chủ yếu, có 80% số hộ nuôi tôm QCCT bán tôm qua thương lái. Sau khi thu gom, thương lái có thể bán cho đại lý và doanh nghiệp, và chủ yếu là hợp đồng miệng. Chức năng chế biến Chủ yếu là các CSCB và các DNCBXK. Sản phẩm chế biến chủ yếu bỏ đầu đông lạnh xuất khẩu, Tôm chế biến có nhiều dạng: Đông lạnh nguyên con (HOSO), Bỏ đầu đông lạnh (Sơ-mi Block) (HLSO), Nobashi (lột vỏ, bỏ đầu ép duỗi), PTO (lột bỏ vỏ, đầu xẻ bướm có tẩm gia vị hoặc không, hoặc lột vỏ bỏ đầu còn đuôi), PD (lột vỏ bỏ đầu và lột vỏ đuôi, tươi hoặc hấp). Chức năng tiêu thụ Tiêu thụ gồm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Tiêu thụ nội địa phần lớn là tôm tươi sống (gọi là tôm oxy), thường loại tôm này do các đại lý hoặc các cơ sở chế biến mua trực tiếp ở ao nuôi và giao cho các điểm phân phối, nhà hàng ở các thành phố lớn. Thông thường là có đơn đặt hàng trước thì các đại lý tìm hộ nuôi thu mua. Ngoài ra tôm chế biến cũng được tiêu thụ, nhưng các doanh nghiệp chế biến cho rằng các sản phẩm chế biến tiêu thụ trong nước ít, chỉ khoảng 2-3% sản lượng chế biến của doanh nghiệp vì thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam không quen dùng thực phẩm (nhất là tôm) dạng đông lạnh. Theo VASEP (2018), trong năm 2017, tôm Việt Nam được xuất khẩu sang 99 quốc gia trên thế giới, top 10 thị trường chính gồm EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Canada, Australia, khối ASAEN, Đài Loan, Thụy Sỹ; chiếm 96,4% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt nam. Năm 2017, top 10 doanh nghiệp xuất khẩu tôm lớn nhất Việt Nam gồm Minh Phu SeaFood Corp; Stpimex; Quoc Viet co., LTD; Fimex Vn; Công ty TNHH chế biến thủy sản và xuất nhập khẩu Trang Khanh, AuVung SeaFood, Công ty Cổ phần thủy sản Việt Nam, Công ty Cổ phần chế biến thủy sản Tài Kim Anh; South Vina Shrimp và Thuan Phuoc Corp, chiếm 16,9% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản và chiếm 36,3% tổng xuất khẩu tôm cả nước (VASEP, 2018). Trong top 10 các DNCBXK tôm thì Minh Phu Corp là doanh nghiệp xuất khẩu lớn nhất, chiếm 8,6% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của cả nước (VASEP, 2018). Tóm lại, mỗi tác nhân trong CGT có chức năng thị trường khác nhau. Nông hộ giữ chức năng sản xuất để cung cấp nguồn nguyên liệu tôm đầu vào cho chế biến xuất khẩu, thương lái có chức năng thu gom từ các hộ nuôi/hợp tác xã, sau đó bán lại cho vựa. Các vựa thu mua tôm từ các hộ nuôi hoặc từ các thương lái, sau đó phân loại và bán lại cho các DNCBXK. Tập hợp nguyên liệu tôm từ các vựa trong và ngoài địa phương, các DNCBXK tiến hành chế biến 62 Nguyễn Phú Son và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 56-64 theo đơn đặt hàng của người mua. 4.3. Phân tích kinh tế chuỗi tôm sú nuôi QCCT Phân tích kinh tế chuỗi TS nuôi theo hình thức QCCT được thực hiện chủ yếu trên kênh phân phối: Nông dân =>Lái thu gom => DNCBXK => xuất khẩu. Có 3 sản phẩm xuất khẩu chính sẽ được phân tích, bao gồm tôm sú xuất khẩu nguyên con, đông lạnh (HOSO), tôm sú xuất khẩu bỏ đầu, đông lạnh (HLSO) và sản phẩm tôm sú xuất khẩu bỏ đầu, lột vỏ, còn đuôi, đông lạnh (PTO). 4.3.1. Sản phẩm tôm sú xuất khẩu dạng HOSO (nguyên con đông lạnh) Số liệu ở Bảng 2 cho thấy, từ 1 tấn tôm nguyên liệu tạo ra giá trị gia tăng là 146,449 triệu đồng, trong đó tác nhân là hộ nuôi đóng góp 59,9%, tác nhân thương lái đóng góp 8,2%, tác nhân doanh nghiệp đóng góp 31,9%. Kênh này tạo ra giá trị gia tăng thuần 56,331 triệu đồng, phân phối cho hộ nuôi là 47,4%, thương lái 10.6% và doanh nghiệp CBXK là 42,0%. Bảng 2 Phân tích kinh tế chuỗi từ 1 tấn tôm nguyên liệu, sản phẩm HOSO Đơn vị tính: 1000đ Khoản mục Người nuôi tôm Thương lái DN CBXK Tổng Giá bán (Doanh thu) 165.000 177.000 223.665 Chi phí trung gian 77.216 165.000 177.000 Giá trị gia tăng (GTGT) 87.784 12.000 46.665 146.449 Tỷ lệ GTGT (%) 59,9 8,2 31,9 100,0 Chi phí tăng thêm 61.092 6.026 23.000 Giá trị gia tăng thuần 26.692 5.974 23.665 56.331 Tỷ lệ GTGT thuần (%) 47,4 10,6 42,0 100,0 Nguồn: Tổng hợp theo số liệu khảo sát 2017. 4.3.2. Đối với sản phẩm tôm sú xuất khẩu dạng HLSO (bỏ đầu, đông lạnh) Số liệu ở Bảng 3 chỉ ra rằng, từ 1 tấn tôm nguyên liệu tạo ra giá trị gia tăng là 159,423 triệu đồng, trong đó tác nhân là hộ nuôi đóng góp 55,1%, tác nhân thương lái đóng góp 7,5%, tác nhân doanh nghiệp đóng góp 37,4%. Kênh này tạo ra giá trị gia tăng thuần 69,861 triệu đồng, phân phối cho hộ nuôi là 38,2%, thương lái 8,6% và doanh nghiệp CBXK là 53,2%. Bảng 3 Phân tích kinh tế chuỗi từ 1 tấn tôm nguyên liệu, sản phẩm HLSO Đơn vị tính: 1000đ Khoản mục Người nuôi tôm Thương lái DN CBXK Tổng Giá bán (Doanh thu) 165.000 177.000 236.639 Chi phí trung gian 77.216 165.000 177.000 Giá trị gia tăng (GTGT) 87.784 12.000 59.639 159.423 Tỷ lệ GTGT (%) 55,1 7,5 37,4 100,0 Chi phí tăng thêm 61.092 6.026 22.444 Giá trị gia tăng thuần 26.692 5.974 37.195 69.861 Tỷ lệ GTGT thuần (%) 38,2 8,6 53,2 100,0 Nguồn: Tổng hợp theo số liệu khảo sát 2017. Nguyễn Phú Son và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 56-64 63 4.3.3. Sản phẩm TS xuất khẩu dạng PTO (bỏ đầu, lột vỏ, còn đuôi-đông lạnh) Kết quả phân tích ở Bảng 4 cho thấy, từ 1 tấn tôm nguyên liệu tạo ra giá trị gia tăng là 187,952 triệu đồng, trong đó tác nhân là hộ nuôi đóng góp 47,5%, tác nhân thương lái đóng góp 6,5%, tác nhân doanh nghiệp đóng góp 46,0%. Kênh này tạo ra giá trị gia tăng thuần 94,968 triệu đồng, phân phối cho hộ nuôi tôm là 28,1%, thương lái 6,3% và doanh nghiệp CBXK là 65,6%. Bảng 4 Phân tích kinh tế chuỗi từ 1 tấn tôm sú nguyên liệu, sản phẩm PTO Đơn vị tính: 1000 đồng Khoản mục Người nuôi tôm Thương lái DNCBXK Tổng Giá bán (Doanh thu) 165.000 177.000 265.168 Chi phí trung gian 77.216 165.000 177.000 Giá trị gia tăng (GTGT) 87.784 12.000 85.168 184.952 Tỷ lệ GTGT (%) 47,5 6,5 46,0 100,0 Chi phí tăng thêm 61.092 6.026 22.849 Giá trị gia tăng thuần 26.693 5.974 62.319 94.986 Tỷ lệ GTGT thuần (%) 28,1 6,3 65,6 100,0 Nguồn: Tổng hợp theo số liệu khảo sát 2017. Nhìn chung, phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia trong CGT, bao gồm các hộ nuôi, thương lái và các DNCBXK chưa thực sự hợp lý, theo hướng không có lợi cho các hộ nuôi (trong cả 3 loại sản phẩm, tỷ lệ lợi nhuận được phân phối cho các hộ nuôi đều thấp hơn 50% tổng lợi nhuận đạt được trên 1 tấn tôm nguyên liệu của toàn CGT). Kết quả phân tích cũng cho thấy chênh lệch giá bán giữa các hộ nuôi và thương lái bình quân khoảng 15.000 đ/kg, trong khi đó chênh lệch này giữa các thương lái và DNCBXK khoảng bình quân là 55.000 đ/kg, do vậy nếu các hộ nuôi thực hiện được liên kết trực tiếp được với các DNCBXK sẽ mang lại mức lợi nhuận được phân phối cao hơn. Số liệu ở các Bảng 2; 3 và 4 cho thấy, đối với sản phẩm tôm chế biến càng sâu, càng tạo ra GTGT và GTGT thuần (lợi nhuận) càng cao. Cụ thể, GTGT được tạo ra từ sản phẩm PTO cao hơn so với sản phẩm HOSO. Trái lại, sản phẩm tạo GTGT càng thấp (HOSO) lại có tỷ lệ phân phối lợi nhuận hợp lý hơn so với sản phẩm tạo GTGT cao (PTO). Đây là lý do gì sao các DNCBXK luôn mong đợi mua được càng nhiều tôm nguyên liệu có kích cỡ lớn, do tôm nguyên liệu có kích cỡ càng lớn càng tạo ra được nhiều sản phẩm xuất khẩu dạng PTO hơn. Để đáp ứng nhu cầu này của các DNCBXK, các hộ nuôi cũng cần nâng cao trình độ sản xuất sao cho đạt tỷ trọng tôm có kích thước lớn càng cao để có thể đạt được giá cả cao. Ngoài ra, để nâng cao tỷ lệ phân phối lợi nhuận, các hộ nuôi cũng có thể thực hiện các giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất thông qua việc áp dụng các quy trình kỹ thuật nuôi tiên tiến, cũng như tăng cường mối liên kết với những nhà cung cấp con giống, thức ăn thủy sản để hưởng được chiết khấu thương mại, nhằm giảm được một phần chi phí sản xuất từ việc sử dụng các yếu tố đầu vào. Một số hộ nuôi tạo được mối liên kết với những nhà cung cấp đầu vào dưới hình thức liên kết ngang (tổ hợp tác/hợp tác xã), lúc đó các hộ nuôi sẽ có được con giống và thức ăn thủy sản có chất lượng cao và ổn định hơn, từ đó cũng góp phần cắt giảm được chi phí sản xuất do sản lượng nuôi cao. Tóm lại, để nâng cấp CGT TS ở vùng TNB, liên kết trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm vẫn là 64 Nguyễn Phú Son và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 56-64 giải pháp hữu hiệu nhất để nâng cấp CGT. Kế đó, việc áp dụng những kỹ thuật nuôi tiên tiến cũng là giải pháp tích cực góp phần nâng cao lợi nhuận của toàn CGT, và do vậy nâng cấp được toàn bộ CGT sản phẩm TS ở vùng TNB. 5. Kết luận Có 5 khâu trong CGT TS được nuôi dưới hình thức quảng canh. Tương ứng có 5 chức năng thị trường: cung cấp sản phẩm đầu vào, sản xuất, thu gom và sơ chế, chế biến, thương mại và tiêu thụ sản phẩm. TS nuôi theo hình thức QCCT được tiêu thụ chủ yếu cho thị trường xuất khẩu qua 5 kênh phân phối khác nhau. Trong đó, kênh phân phối chính là sản phẩm TS được các hộ nuôi bán cho thương lái. Sau đó, thương lái bán lại cho các DNCBXK để phục vụ cho thị trường xuất khẩu. Chính quyền địa phương và các ngân hàng thương mại là 2 tổ chức hỗ trợ cho hầu hết các tác nhân tham gia trong các khâu của CGT. Đơn vị hỗ trợ về kỹ thuật và cách thức tổ chức sản xuất thường xuyên cho các tác nhân tham gia trong khâu cung cấp đầu vào và khâu sản xuất là các Phòng NN&PTNT tại các địa phương. Đối với thị trường xuất khẩu, có 3 sản phẩm chính là sản phẩm TS xuất khẩu nguyên con đông lạnh (HOSO), TS xuất khẩu bỏ đầu, đông lạnh (HLSO) và TS xuất khẩu bỏ đầu, lột vỏ, còn đuôi (PTO). Trong đó, sản phẩm PTO tạo ra GTGT và lợi nhuận cao nhất. Tỷ lệ phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân tham gia trong CGT chưa thực sự hợp lý, theo hướng không có lợi cho các hộ nuôi. Đối với CGT TS nuôi theo hình thức QCCT, để nâng cấp CGT này, giải pháp cải thiện kênh phân phối thông qua việc tăng cường các mối liên kết là cần thiết, nâng cao trình độ sản xuất cho các hộ nuôi và tăng cường mối liên kết dọc giữa các hộ nuôi với những tác nhân cung cấp sản phẩm đầu vào cũng trở nên rất quan trọng để phát triển CGT TS một cách bền vững Tài liệu tham khảo GTZ (2007). Cẩm nang ValueLinks -Phương pháp luận để thúc đẩy chuỗi giá trị -Xuất bản lần thứ nhất. https://www.sme-gtz.org.vn/Portals/0/AnPham/ValuaLinks%20Manual-VN_V. %20071023.pdf GTZ. (2008). ValueLinks: The methodology of value chain promotion. Eschborn, Germany. Tổng Cục thống kê. (2015). Niên giám thống kê 2015. Lộc, V.T.T. (2009). Phân phối lợi ích trong chuỗi giá trị tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 134, 3-8. Lộc, V.T.T., & Son, N.P. (2011). Phân tích chuỗi giá trị lúa gạo vùng ĐBSCL. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, 19a, 96-108. Lộc, V.T.T., & Son, N.P. (2013). Giáo trình Phân tích Chuỗi giá trị sản phẩm (Ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp). NXB Đại học Cần Thơ. Trang, N.T., Tú, V. H., Khải, H.V., & Trần Minh Hải (2018). Phân tích hiệu quả kinh tế mô hình lúa tôm tại huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, 54(09D), 149-156. VASEP. (2015). Thị trường nhập khẩu tôm năm 2014. Retrieved from Tuc/751_39593/Nam-2014-nhap-khau-tom-vao-My-tang-12.htm Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản (2015). Quy hoạch nuôi tôm nước lợ vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Retrieved from https://thuvienphapluat.vn/van- ban/Linh-vuc-khac/Quyet-dinh-5528-QD-BNN-TCTS-2015-quy-hoach-nuoi-tom-nuoc-lo- vung-Dong-bang-song-Cuu-Long-365023.aspx
File đính kèm:
- chuoi_gia_tri_tom_su_quang_canh_o_vung_tay_nam_bo.pdf