Xây dựng mô hình nuôi thương phẩm tôm càng xanh toàn đực tại thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh
TÓM TẮT
Mô hình kỹ thuật nuôi thương phẩm tôm càng xanh toàn đực tại Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM)
và tỉnh Tây Ninh được thực hiện trong hai năm 2016-2017. Tôm được thả nuôi trong ao với mật
độ 6-8 con/m2, sau 6-7 tháng nuôi tôm đạt kích cỡ thương phẩm trung bình từ 12-14 con/kg. Tỉ lệ
sống ở các ao nuôi dao động từ 33-72%. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở các ao cho ăn thức ăn
công nghiệp là 1,4-1,7 và thức ăn chế biến là 3-3,2. Năng suất tôm dao động từ 2.200-3.200 kg/ha.
Tỷ suất lợi nhuận 19-72%. Để trang bị kiến thức cho nông dân, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản II đã tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi tôm càng xanh thương phẩm trong ao đất cho 60 kỹ
thuật viên và nông dân ở hai địa phương Tp. Hồ Chí Minh và Tây Ninh, giúp nông dân biết phân
loại hình thái, đặc tính sinh trưởng, kỹ thuật nuôi trong ao Kết quả thực nghiệm cho thấy mô hình
nuôi tôm càng xanh toàn đực rút ngắn thời gian thu hồi vốn và góp phần đa dạng loài và mô hình
nuôi, tăng thêm nguồn thu nhập cho người nuôi thủy sản.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng mô hình nuôi thương phẩm tôm càng xanh toàn đực tại thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh
ch tôm thương phẩm Hình 10. Thu hoạch tôm tại Tây Ninh Tôm càng xanh được thu hoạch hoàn toàn sau 7-8 tháng nuôi với kích cỡ thu hoạch trung 95TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II bình 10-14 con/kg. Tôm thu hoạch được bán cho các thương lái thu mua tôm tại địa phương. Trước khi thu hoạch, tiến hành thay nước 50% trong 3 ngày liên tục để kích thích TCX lột xác đồng loạt nhằm giảm tỷ lệ tôm mềm vỏ. Hình 11: Thu hoạch tôm tại ao nuôi Tp. HCM Năng suất tôm nuôi thay đổi theo các hộ, dao động từ 2-3,2 tấn/ha. Tổng diện tích nuôi thực nghiệm TCX toàn đực của là 16.200 m2, tổng sản lượng tôm thu hoạch là 3.995 kg và năng suất trung bình cho các mô hình là 2,46 tấn/ha. Bảng 5. Kết quả nuôi thương phẩm TCX toàn đực của các mô hình ở Tây Ninh Ao Mô hình Diện tích (m2) Số lượng giống (con) Số tôm thu hoạch (kg) Năng suất (tấn/ha) Tỷ lệ sống (%) HCM1 2.000 16.000 465 2,32 37,7 HCM2 4.000 28.000 880 2,2 40,8 HCM3 3.000 19.000 610 2,03 41,7 TN1 2.700 14.500 870 3,2 72 TN2 2.500 20.000 730 2,92 54,8 TN3 2.000 16.000 440 2,2 33 Tổng cộng 16.200 113.500 3.995 2,46 46,66 Hình 12. Thu hoạch TCX của hộ Nguyễn Văn Chiến ở kênh Tây 3.7. Hiệu quả kinh tế của mô hình So sánh giữa các mô hình nuôi TCX toàn đực cho thấy điều kiện môi trường ao nuôi, trang thiết bị, chăm sóc quản lý, sẽ cho kết quả về tỷ lệ sống và năng suất ở các mô hình khác nhau. Các mô hình nuôi TCX toàn đực ở Tây Ninh đạt năng suất cao nhất (2,9-3,2 tấn/ ha), kế đến là ở sông Sài Gòn (2-2,4 tấn/ha). 96 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế của mô hình được trình bày ở Bảng 6 và 7. Trong cấu thành tổng chi phí, chi phí con giống của các mô hình 15-20%. Điều này cũng tương tự với báo cáo về chi phí con giống TCX của Trần Ngọc Hải (2014). Đây cũng là một trở ngại cho phát triển nghề nuôi TCX toàn đực. Chi phí nhân công và năng lượng sử dụng cho các mô hình này không đáng kể. Từ số liệu ở Bảng 6 cho thấy để nâng cao hiệu quả kinh tế cho mô hình nuôi TCX toàn đực thì cần giảm chi phí con giống, thức ăn và trang thiết bị. Bảng 6. Tổng chi phí của các mô hình nuôi TCX toàn đực Đơn vị (1.000đ) Ao mô hình Con giống (500đ/con) Thức ăn CN (32.000đ/kg) Thức ăn CB (5.000đ/kg) Nhân công Hóa chất và năng lượng Chi khác Tổng chi phí HCM1 12.500 23.808 7.208 12.000 12.000 30.000 97.516 HCM2 20.000 39.424 13.200 24.000 28.000 30.000 154.624 HCM3 15.000 33.184 9.760 13.000 16.000 30.000 116.944 TN1 12.500 44.544 13.050 14.000 12.000 30.000 126.094 TN2 15.000 32.704 11.680 14.000 14.000 30.000 117.384 TN3 12.500 23.936 6.380 13.000 16.000 10.000 81.816 Bảng 7. Hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi TCX toàn đực Đơn vị (1.000đ) Ao mô hình Năng suất (kg/ao) Chi phí Doanh thu Lãi ròng Tỷ suất lợi nhuận (%) HCM1 465 97.516 116.250 18.735 19,21 HCM2 880 154.624 220.000 65.376 42,28 HCM3 610 116.944 152.500 35.556 30,4 TN1 870 126.094 217.500 91.406 72,49 TN2 730 117.384 182.500 65.116 55,47 TN3 440 81.816 110.000 28.184 34,45 3.8. Tập huấn và hội thảo Hình 13. Tập huấn kỹ thuật nuôi TCX toàn đực tại Trung tâm Khuyến nông Tỉnh Tây Ninh 97TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Kết quả thực nghiệm của các mô hình nuôi TCX toàn đực được tổng kết, đánh giá và xây dựng nội dung cho tập huấn lý thuyết và hội thảo đầu bờ tại địa điểm ở Tp HCM và tỉnh Tây Ninh. Kết thúc thời gian tập huấn các học viên đã hiểu và nắm bắt được những kiến thức cơ bản về nguồn gốc, hiện trạng và quy trình kỹ thuật nuôi TCX toàn đực phù hợp với các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Tp. HCM và tỉnh Tây Ninh. IV. THẢO LUẬN Các ao nuôi TCX toàn đực được chọn có vị trí gần kênh và sông. Ở khu vực kênh Đông và kênh Tây, nước cấp cho ao trực tiếp từ kênh theo hình thức chảy tràn; ở khu vực sông Sài Gòn, ao được cấp nước bằng máy bơm và thủy triều. Một trong những tính chất quan trọng của ao được quan tâm nhất là khả năng giữ nước và sinh phèn. Các ao nuôi TCX toàn đực được chọn có nền đất sét hay thịt pha sét nên đều đảm bảo được chức năng giữ nước. Đa số ao có hình chữ nhật, bờ ao được gia cố chắc chắn, không rò rỉ, không hang hốc làm nơi trú ẩn cho các sinh vật địch hại của tôm. Mặt bờ ao rộng từ 1-2 m nên thuận tiện cho việc đi lại chăm sóc tôm. Hệ thống cấp tiêu nước cho ao được thiết kế đơn giản với các ống PVC có Ø = 220-300 cm. Hầu hết các ao có 1 đường ống lấy nước và 1 đường ống thoát nước. Miệng ống có lưới bao ngăn không cho địch hại xâm nhập vào trong ao hoặc tôm nuôi thoát ra ngoài. Thức ăn tự chế biến ở các hộ nuôi vùng sông Sài Gòn và kênh Tây là cá tạp và ốc bươu vàng mua tại địa phương; còn ở các hộ nuôi kênh Đông là bắp xay và ốc bươu vàng (Hình 10). Kích cỡ thức ăn tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của tôm. Kiểm tra sự ăn mồi của tôm thông qua sàng ăn. Thức ăn được kiểm tra sau 4 giờ cho ăn, nếu thức ăn còn hoặc hết thì sẽ giảm hoặc tăng lượng thức ăn cho lần sau. Nhìn chung nhiệt độ không có sự biến động lớn giữa các ao, dao động từ 27,50C đến 28,50C. Theo New (2002) giới hạn nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng của TCX là từ 20-340C. Sự dao động về nhiệt độ trong suốt thời gian nuôi vẫn nằm trong giới hạn thích hợp cho sự tăng trưởng và phát triển của tôm. Theo Boyd (2002), chênh lệch nhiệt độ ngày đêm không vượt quá 5ºC được xem là tối ưu cho nuôi tôm. Thời gian triển khai các mô hình nuôi TCX toàn đực là từ tháng 6 đến tháng 12 (dương lịch), đã bước vào thời điểm mùa mưa; càng về cuối vụ nuôi tần suất mưa cao và lượng mưa thường lớn. Tuy nhiên, biến động nhiệt độ ngày đêm vẫn nằm trong giới hạn thích hợp cho tôm sinh trưởng. Giá trị pH trung bình của các ao ở khu vực kênh Đông là 8, kênh Tây là 8,8 và sông Sài Gòn là 6. Nguồn nước cấp từ các kênh bắt nguồn từ hồ Dầu Tiếng có chất lượng tốt và yếu tố pH là tương đối ổn định. Trong khi đó, chất lượng nước sông Sài Gòn có sự biến động lớn theo thời gian và theo vị trí. Hơn nữa, nhiều vùng đất ven sông Sài Gòn có khả năng sinh phèn nên các ao ở vùng sông Sài Gòn có pH thấp hơn. Tuy nhiên, do có sự chăm sóc và quản lý tốt của các nông hộ tham gia thực hiện mô hình nên đã góp phần làm giảm sự biến động pH trong điều kiện bất lợi của thời tiết ở cuối vụ. Như vậy, hàm lượng DO trong các ao thuộc mô hình hầu như nằm trong khoảng thích hợp cho TCX; chỉ có thời điểm cuối vụ nuôi khi hàm lượng DO thấp hơn 3 mg/L có thể ảnh hưởng không tốt cho sự sinh trưởng của tôm. Do hầu hết các ao mô hình không có hệ thống sục khí hay đảo nước tạo ôxy, nên tôm nuôi ở tháng nuôi thứ 4 có triệu chứng thiếu ôxy. Sự biến động hàm lượng NO 2 -N trong các ao nuôi có liên quan rất lớn đến mức độ tích lũy vật chất dinh dưỡng và sự phát triển của tảo. Trong ao nuôi, thức ăn công nghiệp và thức ăn tươi giàu đạm được cung cấp vào ao nuôi với một lượng lớn, quá trình khoáng hóa các chất hữu cơ tạo ra nhiều loại muối dinh dưỡng trong đó có dạng NO 2 -N; lượng thức ăn cung cấp tăng dần theo khối lượng tôm nuôi nên hàm lượng NO 2 -N tăng dần về cuối vụ nuôi. Hàm lượng NO 2 -N cho phép trong ao nuôi thủy sản là < 2 98 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II mg/L, tốt nhất là nhỏ hơn 1 mg/L (Boyd, 1990). Kết quả theo dõi cho thấy chỉ tiêu này vẫn nằm trong giới hạn thích hợp, không có ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng và phát triển của tôm. Trong quá trình nuôi, hàm lượng ammonia tổng số (TAN) của các ao trong mô hình dao động từ 2-3 mg/L và có xu hướng tăng dần theo thời gian. Sự biến động này gắn liền với sự biến động của mật độ tảo trong ao. Các ao nuôi mô hình đã thu tỉa sớm ở tháng thứ 5 trở đi khi tôm đạt kích cỡ thương phẩm, 10-14 con/kg. Việc thu tỉa là cần thiết vì ở kích cỡ này, tốc độ sinh trưởng của tôm đã bị chậm lại; thu tỉa cũng làm giảm sinh khối tôm trong ao, giúp quản lý môi trường thuận lợi hơn. Một điểm cần lưu ý là các ao nuôi thường bị nhiễm cá tạp, ở vùng sông Sài Gòn là cá trê, lóc và rô đồng và ở kênh là cá lóc, mè vinh. Cá tạp đã cạnh tranh thức ăn và không gian sống của tôm nuôi; hơn nữa một số loài cá còn là địch hại của tôm. Do đó, để nuôi tôm đạt hiệu quả cao cần phải tập trung vào các biện pháp quản lý các yếu tố môi trường tốt, tăng cường biện pháp ngăn chặn nhiễm cá tạp từ tự nhiên. Kết quả nuôi của các mô hình nhìn chung đạt cao hơn so với các kết quả nghiên cứu trước đây như kết quả thực nghiệm nuôi TCX thâm canh trong ao đất tại Long An đạt 1.200-3.000 kg/ha (Dương Nhựt Long, 2003), ở Malaysia đạt 2.287 kg/ha và ở Đài Loan đạt 1.500-3.000 kg/ha (Ang và ctv., 1990). Sự chênh lệch về năng suất tôm nuôi cho thấy bên cạnh sự khác biệt về vùng địa lý: Điều kiện tự nhiên, chất lượng nước cấp cho ao nuôi, còn có vai trò quan trọng của quản lý và chăm sóc. Hệ thống nuôi được quản lý tốt giữ vai trò thật sự quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm tôm nuôi và lợi nhuận của mô hình nuôi. Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế cho thấy các mô hình đều đạt lợi nhuận khi kết thúc vụ nuôi. Trong các mô hình, có 2 ao ở Tây Ninh (TN1 và TN2) đạt năng suất tôm nuôi ngoài mong đợi (2,92-3,2 tấn/ha) và có tỷ suất lợi nhuận đạt 55-72%. Các mô hình còn lại có năng suất đạt mục tiêu đề ra (2-2,4 tấn/ha) và tỷ suất lợi nhuận trung bình đạt 19-72%. Cũng cần nhấn mạnh là vào thời điểm thu hoạch, tôm được thương lái mua với giá cao từ 250.000-300.000 đồng/kg. Từ đó cho thấy, ngoài cơ sở hạ tầng cũng như kỹ thuật chăm sóc và quản lý góp phần ổn định năng suất, bố trí lịch thời vụ để có giá bán cao và hiệu quả kinh tế lớn cũng là vấn đề rất cần được quan tâm trong tương lai. V. KẾT LUẬN - Các ao nuôi TCX toàn đực ở vùng sinh thái thủy lợi có chất lượng nước tốt và ổn định hơn, thích hợp cho sự tăng trưởng và phát triển của tôm so với vùng sinh thái nước sông. - Các mô hình nuôi TCX toàn đực không xảy ra dịch bệnh và đều thu tỉa sau 5-6 tháng nuôi và thu hoạch toàn bộ sau 7-8 tháng nuôi với kích thước thu hoạch dao động từ 10-14 con/kg. - Năng suất nuôi tôm trung bình là 2,46 tấn/ ha, dao động từ 2,2-3,2 tấn/ha. Tỉ lệ sống trung bình ở các ao nuôi là 46,66%. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở các ao mô hình với thức ăn công nghiệp là 1,4-1,7 và thức ăn chế biến là 3-3,2. - Các ao nuôi TCX toàn đực đều đạt được lợi nhuận với tỷ suất lợi nhuận là 19-72%. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Trần Ngọc Hải, 2010. Hiện trạng sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Hội thảo về tôm càng xanh năm 2010-Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II. Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Tuần, Hoàng Thị Thủy Tiên, Lâm Quyền, Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Nhứt và Huỳnh Thị Hồng Châu, 2004. Kết quả bước đầu sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực, Tuyển tập nghề cá Đồng bằng Sông Cửu Long, Nhà xuất bản nông nghiệp Tp.HCM, trang 159-177. Lê Tiêu La, 2009. Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến 99TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II năm 2015, định hướng đến năm 2020. Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản, 237 trang. Dương Nhựt Long, 2003. Thực nghiệm xây dựng mô hình nuôi tôm càng xanh thâm canh trong ao đất tại huyện Mộc Hóa tỉnh Long An. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học tỉnh Long An, 34 trang. Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2011. Báo cáo sơ kết tình hình nuôi trồng thủy sản nước ngọt năm 2011 và giải pháp triển khai năm 2012 khu vực miền Nam. Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền và Marcy N. Wilder, 2003. Nguyên lý và kỹ thuật sản xuất giống TCX (Macrobrachium rosenbergii), Nhà xuất bản Nông nghiệp Tp.HCM, 127 trang. Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2000. Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh, NXB Nông nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Như Tiệp, 2004. Chất lượng và giải phát phát triển bền vững nuôi cá da trơn. Hội thảo quốc gia và chất lượng và thương hiệu cho cá da trơn Việt Nam. An Giang ngày 14-15/12/2004. Tài liệu tiếng Anh Aquacop, 1983. Intensive rearing in clear water of Macrobrachium rosenbergii (De Man, 1879) at the Centre Oceanologique du Pacifique, Tahiti. In: McVey, J.P., Moore, J.R. (Eds.), CRC Handbook of Mariculture, Crustacean Aquaculture, Vol. 1. CRC, Florida, pp. 179-187. FAO, 2007. Macrobrachium rosenbergii (De Man, 1879). Pp 88. FAO, 2008. Fisheries Statistical Database, Global Aquaculture Production, the State of World Fisheries and Aquaculture 2008. Rome, Italy. New, M.B., 2002. Farming freshwater prawns: A manual for the culture of the giant river prawn (M. rosenbergii). FAO Fisheries Technical Paper, Vol. 428. A Network of Aquaculture Centers in Asia Pacific, Rome, Italy. pp.1-10. Nair, C.M. and K.R. Salin, 2012. Current status and prospects of farming the giant river prawn Macrobrachium rosenbergii (De Man, 1879) and the monsoon river prawn Macrobrachium malcolmsonii (HM Edwards) in India. Aquaculture Research, 43 (7), 999-1014. 100 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ESTABLISHMENT OF CULTURE MODEL FOR ALL-MALE GIANT FRESHWATER PRAWN (Macrobrachium rosenbergii) IN HO CHI MINH CITY AND TAY NINH PROVINCE Nguyen Duc Minh1*, Do Thi Phuong1, Tran Ngoc Anh Tuan1 ABSTRACT The study on all-male giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii) farming was carried out at Ho Chi Minh City and Tay Ninh province from 2016 to 2017. The stocking density was 6-8 prawn/m2, farming duration was 6-7 months. Average size of prawn at harvest ranged from 12-14 individual/kg. Survival rate in ponds ranged from 33-72%. Feed conversion ratio (FCR) in the model ponds was 1.4-1.7 and 3-3.2 for commercial feed and home-made feed, respectively. Prawn yield ranged from 2,200-3,200 kg/ha. Profit rate fluctuated in the range of 19-84%. In order to transfer knowledge to the prawn farmers, the project team has given technical training courses for intensive farming of giant freshwater prawns in earthen ponds for 60 technicians and farmers in two localities in Ho Chi Minh City and Tay Ninh province. The results of this study also showed that the all-male giant freshwater prawn farming model could shorten the duration of capital turnover and contributed to the diversity of culture species, increasing income for farmers. Keywords: All-male prawn, profit, technical training. Người phản biện: ThS. Nguyễn Thanh Vũ Ngày nhận bài: 11/6/2018 Ngày thông qua phản biện: 30/6/2018 Ngày duyệt đăng: 10/7/2018 1 Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: minhria2@yahoo.com
File đính kèm:
- xay_dung_mo_hinh_nuoi_thuong_pham_tom_cang_xanh_toan_duc_tai.pdf