Tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt tại miền Bắc, Việt Nam
TÓM TẮT
Tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt được điều tra dựa trên
phương pháp KAP tại các vùng nuôi cá nước ngọt tập trung thuộc tỉnh Hải Dương. Kết quả điều
tra cho thấy 55/60 (91,7%) cơ sở có sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi, trong đó 67,3% cơ
sở sử dụng để trị bệnh, 29,1% cơ sở sử dụng để phòng và trị bệnh, 3,6% cơ sở sử dụng để phòng
bệnh. Tỷ lệ cơ sở mua thuốc kháng sinh từ cửa hàng thuốc thú y là 85,5%, từ cửa hàng thuốc thú
y và nhân y là 12,7%, và chỉ mua từ cửa hàng thuốc nhân y là 1,8%. Thông tin về sử dụng kháng
sinh có được từ người bán thuốc (41,8%), từ hướng dẫn ghi trên bao bì (36,4%), từ người bán thuốc
và hướng dẫn trên bao bì (3,6%), từ hướng dẫn trên bao bì và kinh nghiệm chủ cơ sở (10,9%). Tìm
hiểu về sự hiểu biết và quan điểm của chủ cơ sở về tình hình sử dụng kháng sinh cho thấy 76,7%
chủ cơ sở cho rằng kháng sinh có thể dùng để điều trị bệnh vi khuẩn, 13,3% cho rằng có thể dùng
để điều trị bệnh vi rút, 16,7% cho rằng có thể dùng như chất kích thích sinh trưởng và 3,3% cho
rằng kháng sinh không dùng để điều trị bệnh vi khuẩn. 76,7% cơ sở cho rằng kháng sinh đã và đang
được sử dụng quá nhiều tại vùng nuôi và 78,3% cơ sở có quan điểm là kháng sinh không mang lại
hiệu quả sử dụng như mong đợi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt tại miền Bắc, Việt Nam
bệnh trong quá trình nuôi, 95% cơ sở điều tra cho rằng họ có khả năng nhận biết được khi nào cá của họ bị bệnh dựa trên việc quan sát các dấu hiệu, biểu hiện bất thường của cá. Tuy nhiên, chỉ có 30% trong số họ đã thông báo cho các nhà chức trách về hiện trạng cá bệnh để yêu cầu sự hỗ trợ về kỹ thuật và 75% trong số họ đã sử dụng ngay kháng sinh để điều trị khi phát hiện cá của họ bị bệnh dù chưa được các nhà chuyên môn chẩn đoán cá bị bệnh gì (bảng 2). Bảng 1. Thông tin cơ bản về các cơ sở điều tra Thông tin điều tra Trả lời Số hộ trả lời Tỷ lệ (%) Giới tính Nam 47 78,3 Nữ 13 27,7 Tham gia đào tạo/tập huấn về phòng trị bệnh Có 47 78,3 Không 13 27,7 Tham gia đào tạo/tập huấn về sử dụng kháng sinh Có 43 71,7 Không 17 28,3 Bảng 2. Cách thức xử lý khi bệnh xuất hiện trên cá nuôi Thông tin điều tra Trả lời Số hộ trả lời Tỷ lệ (%) Khả năng nhận biết khi cá bị bệnh Có 57 95,0 Không 3 5,0 Khi cá bị bệnh có yêu cầu hỗ trợ kỹ thuật chẩn đoán Có 18 30,0 Không 42 70,0 Sử dụng kháng sinh ngay khi cá bị bệnh Có 45 75,0 Không 15 25,0 74 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019 Khi được hỏi về vai trò của việc sử dụng kháng sinh trong nuôi cá, 76,7% cơ sở được hỏi trả lời rằng kháng sinh được dùng để trị bệnh vi khuẩn, 20% không biết là kháng sinh có thể được dùng trong điều trị bệnh vi khuẩn hay không, còn 3,3% khẳng định rằng không sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh vi khuẩn (bảng 3). Hơn nữa 13,3% cơ sở được hỏi cho rằng kháng sinh có thể dùng trong điều trị bệnh virus và 16,7% cơ sở cho rằng có thể dùng kháng sinh như chất kích thích tăng trưởng để tăng tốc độ phát triển của cá nuôi. 75% cơ sở được hỏi có hiểu biết rằng việc sử dụng kháng sinh thường xuyên là nguyên nhân gây ra hiện tượng kháng thuốc, nhờn thuốc (bảng 3). Bảng 3. Hiểu biết, quan điểm của chủ cơ sở điều tra về sử dụng kháng sinh Thông tin điều tra Trả lời Số hộ trả lời Tỷ lệ (%) Kháng sinh có điều trị được bệnh vi khuẩn Có 46 76,7 Không 2 3,3 Không biết 12 20,0 Kháng sinh có điều trị được bệnh virus Có 8 13,3 Không 32 53,3 Không biết 20 33,3 Kháng sinh có thể dùng như chất kích thích tăng trưởng để tăng tốc độ phát triển của cá Có 10 16,7 Không 39 65,0 Không biết 11 18,3 Sử dụng kháng sinh thường xuyên gây ra hiện tượng kháng thuốc, nhờn thuốc Có 45 75,0 Không 2 3,3 Không biết 13 21,7 Quan điểm về sử dụng kháng sinh trong vùng Quá nhiều 46 76,7 Không nhiều 5 8,3 Không biết 9 15,0 Quan điểm về hiệu quả sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh cá trong vùng Không hiệu quả 47 78,3 Hiệu quả 4 6,7 Không biết 9 15,0 Kết quả điều tra cho thấy, mặc dù hầu hết các cơ sở điều tra tại huyện Nam Sách và Tứ Kỳ, Hải Dương là những cơ sở có thâm niên trong nghề nuôi cá nước ngọt, hơn nữa phần lớn các cơ sở đã được tham gia ít nhất 1 khoá đào tạo, tập huấn về phòng trị bệnh cá và sử dụng kháng sinh trong NTTS, song vẫn có cơ sở điều tra khi được hỏi cho rằng kháng sinh không điều trị được bệnh vi khuẩn (3,3%) và kháng sinh điều trị được bệnh virus (13,3%) (bảng 3). Nhận thức sai lệch này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc ra quyết định sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh khi cá của họ bị bệnh và như một hệ quả, sẽ để lại hệ luỵ từ việc sử dụng kháng sinh không đúng lúc và không cần thiết. Khi được hỏi về quan điểm của họ về thực trạng sử dụng kháng sinh trong vùng, 76,7% cơ sở được hỏi có quan điểm cho rằng các cơ sở nuôi trong vùng đã sử dụng quá nhiều kháng sinh trong quá trình nuôi cá, 78,3% cho rằng việc sử dụng kháng sinh đã không mang lại hiệu quả điều trị bệnh cho cá khi bệnh xảy ra (Bảng 3). Kết quả điều tra về hiệu quả sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh của chúng tôi tương tự 75 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019 kết quả điều tra được miêu tả bởi Pham et al. (2015), và Lê Hồng Phước và cộng sự (2018) thể hiện sử dụng kháng sinh không phải khi nào cũng mang lại hiệu quả như mong đợi. Trong báo cáo điều tra của Pham et al. (2015) về hiệu quả sử dụng kháng sinh trong NTTS nước ngọt tại vùng đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL cho thấy 42/94 cơ sở điều tra (44,7%) tin rằng kháng sinh sử dụng không có hiệu quả điều trị bệnh. Còn nghiên cứu của Lê Hồng Phước và cộng sự (2018) đã chỉ ra rằng chỉ có 18,8% cơ sở sử dụng kháng sinh tại miền Bắc và Bắc Trung bộ đánh giá có hiệu quả, 81,2% cho rằng không hiệu quả; 47,6% cơ sở sử dụng kháng sinh tại vùng Nam Trung bộ cho rằng có hiệu quả, 52,4% cho rằng không hiệu quả; 51,4% cơ sở sử dụng kháng sinh tại khu vực ĐBSCL cho rằng có hiệu quả, 32,4% cho rằng không hiệu quả và 16,2% không rõ có hiệu quả hay không. 3.3. Tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi cá nước ngọt tại Hải Dương Khi được hỏi về tình hình sử dụng kháng sinh, mục đích sử dụng và cách thức sử dụng, 91,7% (55 cơ sở) đã trả lời rằng họ có sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi cá. Trong số các cơ sở có sử dụng kháng sinh, 67,3% sử dụng kháng sinh cho mục đích điều trị bệnh, 3,6% cho mục đích phòng bệnh và 29,1% cho cả mục đích phòng và trị bệnh (bảng 4). Bảng 4. Tình hình sử dụng kháng sinh tại các cơ sở nuôi cá nước ngọt Thông tin điều tra Trả lời Số hộ trả lời Tỷ lệ (%) Cơ sở có sử dụng kháng sinh Có 55 91,7 Không 5 8,3 Không biết 0 0 Mục đích sử dụng kháng sinh của cơ sở (55 cơ sở) Điều trị bệnh 37 67,3 Phòng bệnh 2 3,6 Phòng và trị bệnh 16 29,1 Biết về loại kháng sinh đã sử dụng (55 cơ sở) Có 31 56,4 Không biết/Không có thông tin 24 43,6 Số lần sử dụng kháng sinh/ năm Không có thông tin 45 75,0 1 lần/năm 2 3,3 2 lần/năm 3 5,0 3 lần/năm 7 11,7 4 lần/năm 3 5,0 Thử kháng sinh đồ để lựa chọn kháng sinh (55 cơ sở) Không 54 98,2 Có 1 0,8 Địa chỉ mua thuốc kháng sinh (55 cơ sở) Cửa hàng thuốc thú y 47 85,5 Hiệu thuốc y tế 1 1,8 Cả hai 7 12,7 Người/nơi cung cấp thông tin về kháng sinh sử dụng Người bán thuốc 23 41,8 Hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì 20 36,4 Người bán thuốc + Hướng dẫn của nhà sản xuất 2 3,6 Hướng dẫn của nhà sản xuất + Kinh nghiệm 6 10,9 Không có thông tin 4 7,3 Cách thức sử dụng kháng sinh Trộn với thức ăn 55 100 76 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019 Tuy nhiên chỉ có 56,4% trong số các cơ sở sử dụng kháng sinh có hiểu biết về loại kháng sinh họ đã sử dụng, số hộ còn lại (43,6%) không biết hoặc không có thông tin về loại kháng sinh họ sử dụng (bảng 4). Các loại kháng sinh thường được sử dụng gồm Ampicillin, Doxycycline, Rifampicin, Florphenicol, Erythromycin, Trimethoprim/Sulfamethoxazole, Streptomycin và Tetracycline. Khi được hỏi về số lần sử dụng kháng sinh trong năm, 75% các cơ sở điều tra không trả lời cho câu hỏi này, tuy nhiên 5% đã từng sử dụng kháng sinh 4 lần/năm, 11,7% từng sử dụng 3 lần kháng sinh/năm (bảng 4). Khoảng thời gian cho mỗi đợt sử dụng kháng sinh dao động từ 1 ngày đến 7 ngày tuỳ thuộc vào nhiều lý do như dừng sử dụng thuốc khi cá phục hồi (1,7%), theo hướng dẫn của nhà sản xuất (61,7%) và theo hiểu biết về dùng kháng sinh trong khoảng 3-7 ngày (28,3%). Tuy nhiên, một con số đáng lưu ý là 54/55 cơ sở điều tra (98,2%) chưa từng dựa trên kết quả thử kháng sinh đồ để lựa chọn loại kháng sinh sử dụng (bảng 4). Khi được hỏi về nguồn gốc, xuất sử của kháng sinh sử dụng, 47/55 cơ sở sử dụng kháng sinh (85,5%) đã mua thuốc kháng sinh từ các cửa hàng thuốc thú y, 1/55 cơ sở (1,8%) mua từ hiệu thuốc nhân y và 7/55 cơ sở (12,7%) mua kháng sinh ở cả hiệu thuốc nhân y và cửa hàng thuốc thú y (bảng 4). Lý do một số cơ sở mua kháng sinh sử dụng cho người được cho là vì giá rẻ và hiệu quả hơn. Đối với các thông tin liên quan đến cách dùng và liều dùng của kháng sinh, 23/55 cơ sở sử dụng kháng sinh (41,8%) cho rằng họ có được thông tin từ chủ cửa hàng bán thuốc, 20/55 cơ sở (36,4%) cho rằng họ tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất, 2/55 cơ sở (3,6%) cho rằng họ đã kết hợp hướng dẫn của nhà sản xuất và thông tin được cung cấp bởi chủ cửa hàng thuốc, 6/55 cơ sở (10,9%) cho rằng họ đã kết hợp giữa hướng dẫn của nhà sản xuất và kinh nghiệm (bảng 4). Một điều quan trọng nữa là khi được hỏi, 54/55 cơ sở có sử dụng kháng sinh (98,2%) cho biết khi mua kháng sinh, họ đã quan tâm đến nhiều yếu tố như nguồn gốc, xuất xứ, hình thức bao bì đóng gói, tác dụng của kháng sinh, hạn sử dụng trước khi quyết định mua. Kết quả điều tra của chúng tôi về tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi cá nước ngọt tại Hải Dương là tương tự với kết quả điều tra trước đây của Pham et al. (2015) về tình hình sử dụng kháng sinh trong NTTS nước ngọt; của DAH (2016) về tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm nước lợ và cá tra tại ĐBSCL, và của Lê Hồng Phước và cộng sự (2018) về tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm nước lợ trên phạm vi cả nước. Kết quả điều tra của Pham et al. (2015) đã chỉ ra rằng 68/94 cơ sở điều tra (72,3%) đã sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi và đáng lo ngại là hơn nửa trong số họ cho rằng kháng sinh có thể dùng để phòng bệnh; phần lớn thông tin về kháng sinh và cách thức sử dụng kháng sinh có từ cửa hàng bán thuốc thú y (32/94) hoặc dựa trên sự hiểu biết của bản thân họ (29/94). Kết quả điều tra về tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm nước lợ tại 2 tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu của Cục Thú y (2016) cho thấy 146/218 cơ sở nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh (67,0%) đã sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi, trong số đó 61,6% cơ sở sử dụng kháng sinh để phòng bệnh. Kết quả điều tra của Lê Hồng Phước và cộng sự (2018) về tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm sú và tôm chân trắng tại 207 cơ sở nuôi tôm trên phạm vi cả nước cho thấy 56,1% cơ sở điều tra tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ có sử dụng kháng sinh, trong đó 68,7% sử dụng với mục đích phòng bệnh; 71,2% cơ sở nuôi tại khu vực Nam Trung bộ có sử dụng kháng sinh, trong đó 10% sử dụng để phòng bệnh; 68,9% cơ sở tại khu vực ĐBSCL có sử dụng kháng sinh, trong đó 38% sử dụng để phòng bệnh. Tóm lại, tổng hợp kết quả điều tra về tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi cá rô phi và cá truyền thống khác (trong nghiên cứu này), trong NTTS nước ngọt nói chung (Pham et al., 2015), trong nuôi tôm nước lợ và cá tra tại ĐBSCL (DAH, 2016), và trong nuôi tôm nước 77 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 1 - 2019 lợ trên phạm vi cả nước (Lê Hồng Phước và cs, 2018) đã cho thấy một thực trạng rằng kháng sinh vẫn đã và đang được sử dụng nhiều trong NTTS cho cả mục đích phòng và trị bệnh. IV. KẾT LUẬN Kết quả điều tra tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi cá nước ngọt tại Hải Dương cho thấy: + 55/60 cơ sở điều tra (91,7%) có sử dụng kháng sinh trong quá trình nuôi, trong đó 67,3% sử dụng cho mục đích điều trị bệnh; 29,1% cho phòng và trị bệnh; và 3,6% chỉ cho mục đích phòng bệnh. Phần lớn các cơ sở nuôi mua kháng sinh tại cửa hàng thuốc thú y (85,5%), số còn lại mua ở cả cửa hàng thuốc thú y và nhân y (12,7%), và thậm chí chỉ chọn mua từ cửa hàng thuốc nhân y (1,8%). Chủ cơ sở có được thông tin về sử dụng kháng sinh từ người bán thuốc (41,8%); từ hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì (36,4%); từ người bán thuốc kết hợp hướng dẫn trên bao bì (3,6%); từ hướng dẫn trên bao bì và kinh nghiệm bản thân (10,9%). + 76,7% cơ sở điều tra cho rằng kháng sinh có thể dùng để điều trị bệnh vi khuẩn, 13,3% cho rằng có thể dùng để điều trị bệnh vi rút, 16,7% cho rằng kháng sinh có thể sử dụng như chất kích thích sinh trưởng và 3,3% cho rằng kháng sinh không dùng để điều trị bệnh vi khuẩn. 76,7% có quan điểm cho rằng kháng sinh đã và đang được sử dụng quá nhiều tại vùng nuôi và 78,3% có quan điểm là kháng sinh không mang lại hiệu quả sử dụng như mong đợi. Lời cảm ơn: Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn cán bộ Phòng Thú y thuỷ sản, Cục thú y; Trung tâm quan trắc môi trường và bệnh thuỷ sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I và tập thể cán bộ Chi cục Thuỷ sản Hải Dương đã hỗ trợ trong quá trình điều tra thực địa. Nghiên cứu này là một phần kết quả của dự án FAO/FMM/RAS/298 “Nâng cao năng lực, chính sách và kế hoạch hành động quốc gia về sử dụng kháng sinh trong thuỷ sản một cách thận trọng và có trách nhiệm” do Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO) tài trợ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. DAH (2016). Báo cáo kết quả điều tra tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi cá tra tại tỉnh Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang và trong nuôi tôm nước lợ tại tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu. 2. Lê Hồng Phước, Nguyễn Diễm Thư, Hứa Ngọc Phúc, và Phạm Thị Yến (2018). Tình hình sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm sú và tôm chân trắng ở Việt nam. Kỷ yếu hội nghị khoa học và công nghệ chuyên ngành thuỷ sản giai đoạn 2013-2018: 356-363. 3. VASEP (2018). Tổng quan ngành thuỷ sản Việt Nam. OneContent/ tong-quan-nganh.htm 4. FAO/OIE/WHO (2011). High-Level Technical Meeting to Address Health Risks at the Human- Animal- Ecosystems Interfaces. 5. Finley, RL, Collignon P, Larsson DG, McEwen SA, Li XZ, Gaze WH, Reid-Smith R, Timinouni M, Graham DW and Topp E (2013). The scourge of antibiotic resistance: the important role of the environment. Clin. Infect. Dis. 57, 704–10. 6. Giguère, S, John FP, Patricia MD (2013). Antimicrobial therapy in veterinary medicine, John Wiley, fifth edition. 7. Marshall, BM and Levy SB (2011). Food animals and antimicrobials: impacts on human health. Clin. Microbiol. Rev. 24(4): 718–33. 8. Pham, DK, Chu J, Do NT, Brose F, Degand G, Delahaut P, Pauw ED, Douny C, Nguyen KV, Vu TD, Scippo ML, and Wertheim FI (2015). Monitoring antibiotic use and residue in freshwater aquaculture for domestic use in Vietnam. Ecohealth 12: 480-489. 9. Rushton, J, Pinto-Ferreira J and Stark KD (2014). Antimicrobial Resistance: The use of antimicrobials in the livestock sector. OECD Food, Agriculture and Fisheries Papers, No. 68. OECD Publishing. 10. Silbergeld, EK, Graham J and Price LB (2008). Industrial Food Animal Production, Antimicrobial Resistance and Human Health. Annu. Rev. Public Health, 29: 151–169. 11. Tusevljak, N, Dutil L, Rajic A, Uhland FC, McClure C, and St-Hilaire S (2013). Antimicrobial use and resistance in aquaculture findings of a globally administered survey of aquaculture-allied professional. Zoonoses and Public health 60: 426-436. Ngày nhận 1-10-2018 Ngày phản biện 29-11-2018 Ngày đăng 1-1-2019
File đính kèm:
- tinh_hinh_su_dung_khang_sinh_trong_nuoi_trong_thuy_san_nuoc.pdf