Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

TÓM TẮT

Cá bống lưng cao Butis koilomatodon được xem là đối tượng triển vọng cho nuôi trồng thủy sản vì

có giá trị kinh tế cao. Chỉ số sinh trắc ruột và cường độ bắt mồi là các chỉ tiêu quan trọng để xác

định đặc tính ăn cũng như cường độ ăn ở cá, nhưng thông tin này đến nay vẫn chưa được công bố

trên loài cá này. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là cung cấp dẫn liệu mới về chỉ số sinh trắc

ruột và cường độ bắt mồi ở B. koilomatodon theo giới tính, nhóm kích thước, mùa vụ và điểm thu

mẫu. Mẫu cá được thu bằng lưới đáy định kì mỗi tháng từ 4/2019 đến 3/2020 tại sáu điểm thuộc

bốn tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Phần mềm SPSS v.21 được sử dụng để phân

tích các số liệu liên quan đến hai chỉ tiêu trên. Kết quả phân tích ruột 1.227 mẫu cá cho thấy B.

koilomatodon là loài chủ yếu ăn động vật do có chỉ số sinh trắc ruột nhỏ hơn 1. Cả chỉ số sinh trắc

ruột và cường độ bắt mồi đều chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố như giới tính, kích thước và điểm

thu mẫu cũng như tương tác mùa × địa điểm. Kết quả này là nền tảng để tiến hành những nghiên

cứu sâu hơn về nuôi nhân tạo loài cá này.

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 10440
Bạn đang xem tài liệu "Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

Tính ăn và cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis koilomatodon phân bố vùng cửa sông ven biển một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
m thu mẫu 
[Vòng tròn đỏ: địa điểm thu mẫu; 1: Duyên Hải (Trà Vinh), 2: Cù Lao Dung (Sóc Trăng), 
3: Trần Đề (Sóc Trăng), 4: Hòa Bình (Bạc Liêu), 5: Đông Hải (Bạc Liêu), 6: Đầm Dơi (Cà Mau)] 
(Nguồn: Google Map)
Nguyễn Thị Nhã Ý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 358 - 365 
 Email: jst@tnu.edu.vn 360 
Mẫu tươi sau khi bắt được bảo quản bằng 
cách ngâm formol 10% trước khi tiến hành 
vận chuyển về khu vực thực hiện thí nghiệm. 
Tại Phòng thí nghiệm các mẫu cá này sẽ được 
tiến hành lấy các chỉ tiêu về khối lượng (W; 
0,01g), đo chiều dài (TL; 0,01cm), giải phẫu 
lấy ống tiêu hóa và đo chiều dài cũng như 
khối lượng của ống tiêu hóa ở mỗi mẫu cá. 
Xác định tính ăn: Tính ăn của cá hay chỉ số 
sinh trắc ruột (relative length of the gut, RLG) 
được tính dựa trên tỉ lệ giữa chiều dài của ruột 
cá và tổng chiều dài của thân cá. Chỉ số này 
được xác định dựa vào cách tính của tác giả 
Al-Hussaini [3]. 
RLG=
Chiều dài ruột cá
Chiều dài tổng của cá
RLG < 1: Cá ăn chủ yếu là nhóm động vật. 
RLG = 1-3: Cá vừa ăn động vật vừa ăn thực 
vật (ăn tạp). 
RLG > 3: Cá ăn chủ yếu là nhóm thực vật. 
Chỉ số sinh trắc dạ dày GI (gastro-somatic 
index) được sử dụng để xác định cường độ 
bắt mồi và chỉ số này được tính dựa trên cách 
tính của tác giả Desai [4]. 
GI=
Khối lượng của ruột cá
 Khối lượng của cơ thể cá 
2.2. Xử lý số liệu 
Giá trị dao động của giá trị RLG, GI theo giới 
tính, nhóm kích thước của cá và mùa vụ được 
tính dựa trên phép thử t-test. Giá trị dao động 
của giá trị RLG, GI theo địa điểm thu mẫu 
được tính dựa trên phương pháp phân tích 
phương sai một nhân tố (1-way ANOVA). Sự 
tác động của các cặp yếu tố như: giới tính × 
mùa vụ, giới tính × địa điểm thu mẫu, nhóm 
kích thước cá × mùa vụ, nhóm kích thước cá 
× địa điểm thu mẫu và mùa vụ × địa điểm thu 
mẫu đến sự khác nhau của các giá trị RLG, 
GI bằng phương pháp phân tích phương sai 
hai nhân tố (2-way ANOVA). Kích thước của 
cá được phân chia thành hai nhóm dựa trên 
chiều dài thành thục đầu tiên và có sự khác 
nhau ở từng địa điểm được tiến hành nghiên 
cứu, nhóm một với kích thước cơ thể nhỏ hơn 
chiều dài thành thục đầu tiên (tài liệu chưa 
được chính thức công bố). Phần mềm SPSS 
v.21 được dùng để xử lý kết quả thống kê. 
Với mức ý nghĩa 0,05 cho mỗi phép thử được 
xác định. 
3. Kết quả và bàn luận 
3.1. Chỉ số sinh trắc ruột 
Tại sáu địa điểm thu mẫu có tổng cộng 1.227 
con, trong đó có 891 con đực và 336 con cái 
được thống kê như trong bảng 1. 
Bảng 1. Số lượng cá thu được tại sáu điểm nghiên cứu 
Điểm Giới 04/2019 05/2019 06/2019 07/2019 08/2019 09/2019 10/2019 11/2019 12/2019 01/2020 02/2020 03/2020 Tổng 
Duyên 
Hải 
Đực 6 10 8 8 7 9 12 8 9 19 9 26 131 
Cái 2 1 5 5 1 2 3 5 11 4 39 
Cù Lao 
Dung 
Đực 3 10 6 3 6 5 5 3 1 3 5 12 62 
Cái 1 2 4 1 1 4 1 1 4 2 1 2 24 
Trần 
Đề 
Đực 12 8 8 9 9 9 7 15 7 4 2 3 93 
Cái 3 3 1 3 6 2 1 1 1 21 
Hòa 
Bình 
Đực 7 22 25 24 24 24 21 21 23 28 16 20 255 
Cái 25 9 5 6 6 6 7 9 8 2 7 6 96 
Đông 
Hải 
Đực 17 12 14 19 12 11 14 16 1 15 14 13 158 
Cái 4 11 3 8 5 4 1 13 2 4 3 58 
Đầm 
Dơi 
Đực 21 19 15 16 11 14 19 7 11 15 20 24 192 
Cái 6 9 14 4 10 2 9 13 15 10 6 98 
Phân tích 1.227 mẫu cá bống lưng cao Butis koilomatodon ghi nhận được giá trị trung bình RLG 
là 0,56±0,00 SE. Theo phân loại chỉ số RLG của Nikolsky [5] thì chỉ số sinh trắc ruột của loài 
này nhỏ hơn 1 nên cá bống lưng cao Butis koilomatodon thuộc nhóm cá thiên về ăn động vật. 
Tương tự loài cá bống lưng cao, ở ĐBSCL có một vài loài cá cũng thuộc nhóm cá thiên về ăn 
động vật như: Glossogobius giuris [6], Glossogobius spasipapillus [7], Glossogobius aureus [8], 
Oxyeleotris urophthalmus [9], Eleotris melanosoma [10], Periophthalmodon schlosseri [11] và 
Periophthalmodon septemradiatus [12], [13]. 
Nguyễn Thị Nhã Ý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 358 - 365 
 Email: jst@tnu.edu.vn 361 
RLG trung bình của cá đực là 0,55±0,00 SE 
và cá cái là 0,58±0,01 SE (t-test, t=3,16, 
p<0,05). Tuy giá trị giữa chỉ số sinh trắc ruột 
ở cá đực và cái được ghi nhận khác nhau và 
có mức ý nghĩa dưới 5%, nhưng RLG đều 
nhỏ hơn 1 và đều thuộc nhóm cá thiên về ăn 
động vật. Theo nhóm chiều dài, RLG giữa 
nhóm 1 (TL<chiều dài thành thục đầu tiên) và 
nhóm 2 (TL>chiều dài thành thục đầu tiên) 
cũng ghi nhận được sự khác nhau (t-test, 
t=2,17, p<0,05, Hình 2) nhưng đều nhỏ hơn 1. 
Tính ăn của cá bống lưng cao Butis 
koilomatodon không thay đổi khi kích thước 
cá thay đổi. Một số loài cá tại khu vực 
ĐBSCL cũng có tính ăn không đổi khi trưởng 
thành như: Oxyeleotris urophthalmus [9] và 
Parapocryptes serperaster [14]. Chỉ số sinh 
trắc ruột của cá bống lưng cao Butis 
koilomatodon không thay đổi theo mùa, vì 
RLG trong mùa khô là 0,57±0,01 SE và mùa 
mưa là 0,55±0,01 SE (t-test, t=1,90, p>0,05). 
RLG tại sáu địa điểm thu mẫu cũng có sự 
khác nhau, thấp nhất là tại khu vực Trần Đề 
với RLG là 0,52±0,01 và cao nhất tại khu vực 
Đầm Dơi với RLG ghi nhận là 0,63±0,01 SE 
(ANOVA, F=33,12, p<0,05, Hình 3). Sự khác 
biệt này tuy có mức ý nghĩa dưới 5%, nhưng 
thấy được mặc dù khu vực sống không giống 
nhau nhưng loài này đều được ghi nhận là 
nhóm cá ăn thức ăn chủ yếu là động vật 
(RLG<1). RLG của loài cá bống lưng cao này 
cũng không giống nhau trong 12 tháng nghiên 
cứu, RLG cao nhất vào tháng 8 là 0,59±0,01 
SE và tháng 11 là 0,53±0,01 SE, đây là tháng 
được ghi nhận thấp nhất (ANOVA, F=2,93, 
p<0,05, Hình 4). Sự thay đổi giá trị RLG của 
loài cá bống lưng cao này chịu tác động bởi 
tương tác của hai yếu tố nhóm chiều dài × địa 
điểm (ANOVA, F=5,06, p<0,05) và mùa × 
địa điểm (ANOVA, F=5,39, p<0,05), nhưng 
bên cạnh đó, giá trị RLG này không chịu sự 
tương tác của hai yếu tố nhóm chiều dài × 
mùa (ANOVA, F=1,06, p>0,05), giới tính × 
mùa (ANOVA, F=0,09, p>0,05) và giới tính 
× địa điểm (ANOVA, F=0,43, p>0,05). 
Hình 2. Chỉ số sinh trắc ruột theo nhóm chiều dài cá 
(N1: TLchiều dài thành thục đầu tiên; Đường đứng: sai số chuẩn) 
Nguyễn Thị Nhã Ý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 358 - 365 
 Email: jst@tnu.edu.vn 362 
Hình 3. Chỉ số sinh trắc ruột theo địa điểm 
(DH: Duyên Hải; CLD: Cù Lao Dung; TĐ: Trần Đề; ĐH: Đông Hải; HB: Hòa Bình; ĐD: Đầm Dơi; 
Đường đứng: sai số chuẩn; a, b và c thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
Hình 4. Chỉ số sinh trắc ruột theo thời gian (Đường đứng: sai số chuẩn) 
Hình 5. Cường độ bắt mồi theo nhóm chiều dài 
(N1: TLchiều dài thành thục đầu tiên; 
Đường đứng: sai số chuẩn; a và b thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
Nguyễn Thị Nhã Ý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 358 - 365 
 Email: jst@tnu.edu.vn 363 
3.2. Cường độ bắt mồi 
Cường độ bắt mồi (GI) của loài cá bống lưng 
cao Butis koilomatodon trung bình là 
0,04±0,00 SE; GI của loài này tương đối thấp. 
Một số loài cá trong họ cá bống lại có cường 
độ bắt mồi cao như: Periophthalmodon 
septemradiatus [15], Parapocryptes 
serperaster [14], Eleotris melanosoma [10]. 
Cường độ bắt mồi được ghi nhận ở cá đực và 
cá cái có giá trị khác nhau. Ở cá cái có cường 
độ bắt mồi (0,05±0,00 SE) cao hơn cá đực 
(0,04±0,00 SE, t-test, t=2,35, p<0,05) có thể 
do cá cái cần tích lũy nhiều năng lượng hơn 
để cung cấp cho chu kì sinh sản hoặc bù lại 
nguồn năng lượng đã mất trong quá trình sinh 
sản để chuẩn bị cho chu kì sinh sản tiếp theo. 
Cường độ bắt mồi của cá bống lưng cao Butis 
koilomatodon cũng có sự biến đổi theo kích 
thước, vì giá trị GI ghi nhận được khác nhau 
ở hai nhóm kích thước cá (t=2,81, p<0,05, 
Hình 5). Vào mùa khô cường độ bắt mồi là 
0,04±0,00 SE giá trị này cũng tương đương 
vào mùa mưa là 0,04±0,00 SE (t=0,92, 
p>0,05), với mức ý nghĩa lớn hơn 5% thì 
không thấy được sự khác nhau giữa 2 mùa. 
Có thể sự khác biệt về lượng mưa ở cả mùa 
khô và mùa mưa không tác động đến cường 
độ bắt mồi. Một số loài cũng có GI tương 
đương giữa mùa khô và mùa mưa như 
Eleotris melanosoma [10] và Stigmatogobius 
pleurostigma [16]. Mặc khác, cường độ bắt 
mồi của Butis koilomatodon theo không gian 
cũng ghi nhận được sự thay đổi, GI đạt cao 
nhất tại các địa điểm Duyên Hải (Trà Vinh), 
Trần Đề (Sóc Trăng) và khu vực Đầm Dơi 
(Cà Mau) đều có cường độ bắt mồi là 
0,05±0,00 SE và thấp nhất tại khu vực Hòa 
Bình (Bạc Liêu) với cường độ bắt mồi là 
0,03±0,00 SE (1-way ANOVA, F=30,67, 
p<0,05, Hình 6). Cường độ bắt mồi thay đổi 
tùy theo điều kiện của môi trường sống. Sự 
thay đổi hàng tháng của cường độ bắt mồi 
thấy được rất rõ ở loài này do sự khác biệt GI 
trong nghiên cứu 12 tháng, giá trị cao nhất ghi 
nhận được là tháng 2 (0,06±0,00 SE) và tháng 
5 ghi nhận được giá trị thấp nhất (0,03±0,00 
SE, F=11,21, p<0,05, Hình 7). Sự thay đổi 
cường độ bắt mồi giữa các tháng cũng được 
ghi nhận ở loài Parapocryptes serperaster 
[14]. Ngoài các tác động từ 1 yếu tố đã phân 
tích, thì sự tương tác 2 yếu tố cũng có tác 
động đến cường độ bắt mồi như giới tính × 
mùa (2-way ANOVA, F=4,70, p<0,05) và địa 
điểm × mùa (F=15,74, p<0,05), nhưng lại 
không chịu tác động bởi giới tính × địa điểm 
(F=2,03, p>0,05), kích thước × mùa (F=1,28, 
p>0,05) và kích thước × địa điểm (F=2,18, 
p>0,05).
Hình 6. Cường độ bắt mồi theo địa điểm 
(DH: Duyên Hải; CLD: Cù Lao Dung; TĐ: Trần Đề; ĐH: Đông Hải; HB: Hòa Bình; ĐD: Đầm Dơi; 
Đường đứng: sai số chuẩn; a, b và c thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
Nguyễn Thị Nhã Ý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 358 - 365 
 Email: jst@tnu.edu.vn 364 
Hình 7. Sự biến động của cường độ bắt mồi theo thời gian 
(Đường đứng: sai số chuẩn; a, b, c, d và e thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê) 
4. Kết luận 
Cá bống lưng cao Butis koilomatodon là 
nhóm cá ăn thiên về động vật và chỉ số RLG 
là 0,56±0,00 SE (RLG<1). Bên cạnh đó, sự 
dao động của chỉ số RLG ở loài này phụ 
thuộc vào các yếu tố: giới tính, kích thước của 
cá, địa điểm nghiên cứu, thời gian nghiên cứu 
và các cặp tương tác như kích thước × địa 
điểm, mùa × địa điểm. Các yếu tố như mùa, 
giới tính × mùa, giới tính × địa điểm, kích 
thước × mùa thì không làm biến động đến chỉ 
số RLG của loài cá bống lưng cao này. Cường 
độ bắt mồi của cá cái cao hơn cá đực, nhóm 1 
(TL<chiều dài thành thục đầu tiên) cao hơn 
nhóm 2 (TL>chiều dài thành thục đầu tiên), 
mùa khô cao hơn mùa mưa. Chịu tác động bởi 
yếu tố kích thước và cặp tương tác mùa × địa 
điểm và đều không chịu tác động bởi giới tính 
× địa điểm, kích thước × địa điểm và kích 
thước × mùa. Kết quả thu được qua nghiên 
cứu đã bổ sung thêm những thông tin khoa 
học hữu ích về tính ăn của cá và cường độ bắt 
mồi, qua đó làm nền tảng cho những nghiên 
cứu khoa học kế tiếp về nuôi nhân tạo cho 
loài cá bống lưng cao này. 
Lời cảm ơn 
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Giáo 
dục và Đào tạo đã hỗ trợ về kinh phí cho đề 
tài này (B2019-TCT-02) và Nguyễn Hữu Đức 
Tôn, Nguyễn Thị Thúy Hiền và Trần Chí 
Cảnh đã hỗ trợ thu và phân tích mẫu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. H. V. Nguyen, Freshwater fish of Viet Nam, 
vol. 3. Hanoi: The Agricultural Publisher, 
2005. 
[2]. T. N. Nguyen, Fauna of Vietnam - 
Gobioidei, vol. 5. Hanoi: Sciences and 
Technics Publishing House, 2000. 
[3]. A. H. Al-Hussaini, "On the functional 
morphology of the alimentary tract of some 
fish in relation to differences in their feeding 
habits: anatomy and histology," Quarterly 
Journal of Microscopical Science, vol. 3, pp. 
109-139, 1949. 
[4]. V. R. Desai, "Studies on fishery and biology 
of Tor tor (Hamilton) from river Narmada. I. 
Food and feeding habits," Journal of the 
Inland Fisheries Society of India, vol. 2, pp. 
101-112, 1970. 
[5]. G. V. Nikolsky, Ecology of fishes. London, 
United Kingdom: Academic Press, 1963. 
Nguyễn Thị Nhã Ý và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 358 - 365 
 Email: jst@tnu.edu.vn 365 
[6]. X. T. M. Pham, "The composition of the 
goby species of Gobiidea and Eleotridae and 
some biological characteristics of the tanks 
goby Glossogobius giuris (Hamilton, 1822) 
in Can Tho," M.S. thesis, College of 
Aquaculture and Fisheries, Can Tho 
University, Can Tho, 2012. 
[7]. K. T. Tran, "The composition of the goby 
species of Gobiidea and Eleotridae and some 
biological characteristics of the goby 
Glossogobius sparsipapillus Akihito and 
Meguro, 1976 in coastal area Thanh Phu 
district, Ben Tre province," M.S. thesis, 
College of Aquaculture and Fisheries, Can 
Tho University, Can Tho, 2013. 
[8]. T. M. Nguyen, L. T. N. Huynh, P. T. 
Nguyen, and D. D. Tran, "Some reproductive 
biological characteristics of the Glossogobius 
aureus Akihito & Meguro, 1975 distributed 
in Ben Tre coastal areas," Science magazine 
of Can Tho University, vol. Thuy san, pp. 
169-176, 2014. 
[9]. T. T. Vo, and D. D. Tran, "Study on 
nutritional characteristics of Oxyeleotris 
urophthalmus fish distributed along the Hau 
River," Science magazine of Can Tho 
University, vol. Thuy san, pp. 192-197, 2014. 
[10]. Q. M. Dinh, D. T. Nguyen, and S. Danh, 
"Food and feeding habits of the broadhead 
sleeper Eleotris melanosoma from coastline 
in Soc Trang," in Proceeding of the 7th 
National Scientific conference on Ecology 
and Biological Resources, Ha Noi, 2017, pp. 
1873-1879. 
[11]. L. T. Tran, H. D. Hoang, and Q. M. Dinh, 
"Digestive tract morphology, food 
composition and feeding habits of the giant 
Mudskipper Periophthalmodon schlosseri 
(Pallas, 1770) from the Coastline in Tran De, 
Soc Trang," VNU Journal of Science: 
Natural Sciences and Technology, vol. 35, 
pp. 30-38, 2019. 
[12]. Q. M. Dinh, L. T. Tran, T. M. T. Tran, K. D. 
To, T. T. K. Nguyen, and D. D. Tran, 
"Variation in diet composition of the 
mudskipper Periophthalmodon 
septemradiatus from Hau River, Vietnam," 
Bulletin of Marine Science, vol. 95, pp. 1-14, 
2019. 
[13]. Q. M. Dinh, T. L. Tran, and T. K. T. Nguyen, 
"The relative gut length and gastro-
somaticindexes of the mudskipper 
Periophthalmodon septemradiatus 
(Hamilton, 1822) from the Hau River," VNU 
Journal of Science: Natural Sciences and 
Technology, vol. 34, pp. 75-83, 2018 . 
[14]. Q. M. Dinh, J. G. Qin, S. Dittmann, and D. 
D. Tran, "Seasonal variation of food and 
feeding in burrowing goby Parapocryptes 
serperaster (Gobiidae) at different body 
sizes," Ichthyological Research, vol. 64, pp. 
179-189, 2017. 
[15]. Q. M. Dinh, "Aspects of reproductive 
biology of the red goby Trypauchen vagina 
(Gobiidae) from the Mekong Delta," Journal 
of Applied Ichthyology, vol. 34, pp. 103-110, 
2018. 
[16]. Q. M. Dinh, and M. T. D. Tran, "Digestive 
tract morphology, food and feeding habits of 
the goby Stigmatogobius pleurostigma 
(Bleeker, 1849) from the Coastline in Soc 
Trang," VNU Journal of Science: Natural 
Sciences and Technology, vol. 34, pp. 46-55, 
2018.

File đính kèm:

  • pdftinh_an_va_cuong_do_bat_moi_cua_ca_bong_lung_cao_butis_koilo.pdf