Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam

Khởi nghiệp là một công việc phức tạp mà quá trình thực hiện có thể thành công và

thất bại. Thị trường ngày càng có tính cạnh tranh cao không chỉ trong nước mà toàn cầu

càng làm gia tăng xác suất xảy ra thành công và thất bại có thể đạt đến tỷ lệ 50/50. Mỗi

ngành nghề và đất nước khởi nghiệp đều có thể tổng kết một cách khái quát kinh nghiệm

thành công và thất bại. Bên cạnh những biểu hiện có tính đặc thù, chúng vẫn có những điểm

tương tự nhau nhất là các quốc gia đều có nền kinh tế thị trường với những nguyên tắc vận

hành khống có sự khác biệt đáng kể. Chính vì thế các kinh nghiệm này có thể được học hỏi

lẫn nhau giữa các nước và chúng đóng vai trò định hướng quan trọng về nhận thức và hành

động ngay lúc khởi nghiệp cũng như cả giai đoạn sau đó. Các kinh nghiệm này để học hỏi

cần được chọn lọc để tránh vận dụng máy móc vào Việt Nam với những đặc thù nhất định

trong phát triển. Dưới đây là một số kinh nghiệm khởi nghiệp được các Viện nghiên cứu

chuyên về khởi nghiệp tổng kết có tính khái quát, mặc dù không nêu cụ thể từng trường hợp,

nhưng các tổng kết này đóng vai trò nhất định trong việc đưa ra đánh giá tổng thể về thành

công và thất bại của khởi nghiệp. Năm 2016 được xác định là năm khởi nghiệp của Việt

Nam và nằm trong lộ trình xây dựng một chính phủ kiến tạo, hành động và liêm chính. Đây

là một nhiệm vụ quan trọng nhằm khai thác các nguồn lực phát triển, giải quyết việc làm và

thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 1

Trang 1

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 2

Trang 2

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 3

Trang 3

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 4

Trang 4

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 5

Trang 5

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 6

Trang 6

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 7

Trang 7

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 8

Trang 8

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 9

Trang 9

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 2000
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam

Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam
 định lấy năm 2016 làm năm khởi nghiệp quốc gia 
với mục tiêu xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động. Kể từ 
khi công bố mục tiêu này từ tháng 5/2016 đến hết năm 2016, có khoảng 110 
nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp được thành lập. Khởi nghiệp đang dần trở thành 
một tập quán mới ở Việt Nam và đang thể hiện là một xu hướng quan trọng trong 
huy động và ở mức độ cao hơn là giải phóng mọi nguồn lực xã hội cả trong và 
429 
ngoài nước, tạo lực lượng sản xuất mới. Tuy nhiên, số khởi nghiệp thất bại cũng 
chiếm tỷ lệ không nhớ thường không dưới 10% số lượng khởi nghiệp trong vòng 
1 năm đầu tiên. Các nỗ lực khởi nghiệp được chính phủ thể hiện thông qua hàng 
loạt quyết định quan trọng, thể hiện: 
- Công bố chủ trương xây dựng quốc gia khởi nghiệp với mục tiêu đến năm 
2020, có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp khởi nghiệp và 2 triệu doanh nghiệp khởi 
nghiệp đến năm 2025, và 5 triệu doanh nghiệp khởi nghiệp sau năm 2025. Trong 
đó, mục tiêu doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao đạt tỷ lệ ít nhất 10%. Điều 
này thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ nhằm gia tăng nội lực của đất nước 
trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Thực tế cho thấy, sau 
30 năm mở cửa và hội nhập quốc tế, số lượng doanh nghiệp Việt Nam, tính đến 
hết năm 2016, chỉ mới đạt con số khoảng 500 nghìn doanh nghiệp thuộc tất cả 
các thành phần kinh tế với quy mô dân số 93 triệu dân nghĩa là cứ 186 người có 
1 doanh nghiệp trong khi vẫn còn khoảng 200 nghìn người có trình độ cử nhân, 
đại học, cao đẳng, trung cấp và sơ cấp hoặc các cấp đào tạo cao hơn không có 
việc làm. Có thể khẳng định, đây là mục tiêu trung gian để phục vụ mục tiêu bao 
trùm là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”. 
- Ban hành nhiều chính sách quan trọng phục vụ cho công cuộc khởi 
nghiệp quốc gia như: 
+ Nghị quyết 19 của Chính phủ (2013 và 2017) về cải thiện môi trường 
kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trọng tâm là hoàn thiện thể 
chế và cải cách thủ tục hành chính. Năm 2016, môi trường kinh doanh ở Việt 
Nam đã tăng lên 9 bậc so với năm 2015. Điều này cho thấy nỗ lực cải thiện môi 
trường kinh doanh có tác dụng đáng kể trong đó có môi trường khởi nghiệp. 
+ Đề án Thương mại hóa dự án khoa học và công nghệ quốc gia. 
+ Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/05/2016 về việc phê duyệt Đề án 
“Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”2 
(Hộp 1) 
2
 Nếu xem xét với các nước trong khu vực, Thái Lan có phong trào nông dân Thái Lan 4.0 để tận 
dụng tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay cuộc cách mạng 4.0 chủ yếu dựa trên 
nền tảng số hóa để tiếp cận với công nghệ cao. 
430 
Hộp 1: Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo 
Mục tiêu hỗ trợ được 800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó 
50 doanh nghiệp gọi được vốn thành công từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện 
mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng. Khẩn 
trương hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; thiết lập 
được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia. Đến năm 2025: 
- Hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; 
- Hỗ trợ phát triển 600 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; 
- 100 doanh nghiệp tham gia Đề án gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo 
hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng. 
Đối tượng hỗ trợ của Đề án: i) Cá nhân, nhóm cá nhân có dự án khởi 
nghiệp; Doanh nghiệp khởi nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai 
thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới; Doanh nghiệp khởi 
nghiệp có thời gian hoạt động không quá 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng 
nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. ii) Tổ chức cung cấp dịch vụ, cơ sở vật chất 
- kỹ thuật, đầu tư, truyền thông cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hoạt động hiệu 
quả, đáp ứng các tiêu chí của Đề án. Cụ thể: Người đứng đầu có ít nhất 01 năm 
kinh nghiệm hoạt động tư vấn đầu tư, tài chính và hỗ trợ, phát triển doanh 
nghiệp; Tổ chức có ít nhất 01 năm hoạt động, cung cấp dịch vụ cho ít nhất 10 
nhóm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và đã đầu tư hoặc gọi vốn đầu tư được ít nhất 
01 tỷ đồng cho các nhóm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam; Có quy 
trình hỗ trợ khởi nghiệp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thỏa thuận hợp tác 
với tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài về đầu tư, đào tạo, huấn luyện, tư 
vấn cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. 
*Nguồn: Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/ 05/ 2016 
+ Kết nối mạng khởi nghiệp Việt Nam với mạng khởi nghiệp toàn cầu từ 
đầu năm 2017. 
+ Thành lập khoản tín dụng 100 nghìn tỷ đồng cho doanh nghiệp khởi 
nghiệp công nghệ cao, hỗ trợ 100% lãi suất. 
 + Đề nghị bãi bỏ Điều 192 Bộ luật Hình sự để khuyến khích khởi nghiệp 
qua mạng 
 + Tham gia giải quyết hiệu quả các vụ việc gây bức xúc dư luận như xử lý 
nghiêm minh trường hợp ra quyết định thiếu phù hợp của cơ quan chức năng đối với 
chủ quán cà phê “Xin chào” ở Thành phố Hồ Chí Minh, bảo đảm tính công bằng 
trong kinh doanh và thể hiện thái độ ủng hộ chủ doanh nghiệp của chính phủ. 
431 
- Đẩy mạnh triển khai công cuộc khởi nghiệp đến từng địa phương như 
thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu thành lập 500 ngàn doanh nghiệp khởi 
nghiệp, 400 nghìn doanh nghiệp đối với Hà Nội và 22 nghìn doanh nghiệp đối 
với Đà Năng đến năm 2020. Các địa phương cũng đã cụ thể hóa việc triển khai 
công cuộc khởi nghiệp này như Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí 
Minh công bố chương trình hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo giai đoạn 
2016 - 2020. Mỗi dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được hỗ trợ tương ứng tối 
đa lên tới 2 tỷ đồng cho mỗi dự án với thời gian tối đa 2 năm từ ngày 1/1/2017. 
- Đẩy mạnh công tác truyền thông khởi nghiệp đến với công chúng trong 
nước và nước ngoài thông qua các chương trình truyền thông trên các phương 
tiện thông tin đại chúng như đài tiếng nói Việt Nam, kênh truyền hình trung 
ương và địa phương, báo chí, tạp chí, mạng thông tin, các phong trào khởi nghiệp 
trong cơ sở giáo dục đại học, địa phương, các cuộc thi ý tưởng kinh doanhĐây 
là yếu tố cho thấy việc tạo dư luận ủng hộ khởi nghiệp được quan tâm thỏa đáng 
để khởi nghiệp trở thành một phong trào và thói quen mới có sức thu hút mạnh 
mẽ các đối tượng hữu quan. 
- Nhiều tổ chức và cá nhân tích cực và chủ động tham gia vào công cuộc 
khởi nghiệp như sẵn sàng cung cấp nguồn vốn, tư vấn khởi nghiệp, hỗ trợ trang 
bị kiến thức, kinh nghiệm, đào tạo kỹ năng cũng như chia sẻ thông tin và mạng 
lưới khởi nghiệp. 
Bên cạnh những thành công trên đây, theo tác giả, công cuộc khởi nghiệp 
của Việt Nam vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, thể hiện: 
- Hiệu lực của chính sách khởi nghiệp trực tiếp tác động tới công chúng 
chưa cao, đặc biệt thủ tục vẫn còn rườm rà. Chẳng hạn, theo ý kiến của chủ khởi 
nghiệp, để tiếp cận nguồn vốn khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp 
thực hiện thông qua các ngân hàng thương mại, chủ khởi nghiệp phải nhận được 
ý kiến đồng ý của Liên minh hợp tác xã, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông 
nghiệp và Phát triển Nông thôn, ý kiến của lãnh đạo tỉnh, khoảng thời gian hoàn 
thành các loại thủ tục này mất khoảng 6 tháng. Cho đến nay, chưa có một chủ 
khởi nghiệp nào tiếp cận được nguồn vốn này. 
- Cách hiểu nội dung văn bản quy định còn chưa thống nhất giữa cơ quan 
ban hành và cơ quan thực hiện, có trường hợp tiêu chuẩn sử dụng để đánh giá 
chưa rõ ràng như thiếu các tiêu chí khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nông 
432 
nghiệp. Điều này gây lúng túng trong quá trình thực hiện nhất là trong thẩm 
định hồ sơ yêu cầu tiếp nhận hỗ trợ từ phía nhà nước. 
Do bản chất là nền kinh tế thị trường cho nên quá trình cạnh tranh diễn ra 
liên tục, gay gắt tạo ra áp lực rất lớn đối với các chủ khởi nghiệp. Điều này dẫn 
đến kết quả là số lượng khởi nghiệp được thành lập và số lượng khởi nghiệp duy 
trì hoạt động ổn định, lâu dài có sự khác nhau đáng kể. Hơn nữa, do tác động của 
xu hướng tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường, hàng nhập khẩu gia tăng làm 
tăng cạnh tranh trên thị trường, khởi nghiệp ngày càng khó khăn. Kinh nghiệm 
của các chủ khởi nghiệp ở Việt Nam cho thấy nếu các khởi nghiệp tồn tại được 
trong vòng 5-6 năm nghĩa là có khả năng duy trì được hoạt động lâu dài. Điều 
này tương đương với chính sách hỗ trợ của khởi nghiệp gắn với giai đoạn 5 năm 
đầu của Ấn Độ thường là khó khăn nhất đối với chủ khởi nghiệp. 
Một số giải pháp áp dụng kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện Việt Nam 
Những kinh nghiệm quốc tế gồm thành công và thất bại của khởi nghiệp có 
thể áp dụng vào điều kiện Việt Nam khi Việt Nam đang trong giai đoạn đầu thực 
hiện mục tiêu thành lập quốc gia khởi nghiệp. 
Đối với Chính phủ, cần tiếp tục chủ trương xây dựng chính phủ kiến tạo, 
liêm chính và hành động để tạo nhận thức đầy đủ, toàn diện và triệt để trong 
phục vụ khởi nghiệp. Có thể khẳng định nếu không khởi nghiệp hiệu quả, đất 
nước sẽ khó phát huy và khai thác hết nguồn lực, mục tiêu trở thành nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 khó thực hiện được. Chủ trương này 
cần quán triệt đầy đủ trong các cơ quan chức năng như các bộ, ban, ngành, sở, 
chính quyền địa phương. Sự đồng hành của chính phủ và công cuộc khởi nghiệp 
nên mở rộng về quy mô, phạm vi và nâng tầm ảnh hưởng để chủ trương này 
được tất cả các tổ chức, cá nhân, thành viên, cộng đồng nhận thức đầy đủ và tự 
giác, sáng tạo thực hiện. Các chủ trương, chính sách thúc đẩy khởi nghiệp cần 
được ban hành và hoàn thiện trong tất cả các lĩnh vực để huy động triệt để mọi 
nguồn lực phát triển và mọi lực lượng cả trong và ngoài nước, mọi lứa tuổi. Chẳng 
hạn, bên cạnh coi trọng khởi nghiệp công nghệ cao hoặc lĩnh vực nông nghiệp công 
nghệ cao có thể khuyến khích khởi nghiệp trong các lĩnh vực khác như lĩnh vực dịch 
vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa trực tiếp hoặc qua mạng, dịch vụ vui chơi, giải trí, giáo 
dục, thể dục, thể thao, Chính phủ cần có bộ phận tư vấn khởi nghiệp chuyên 
nghiên cứu về mô hình khởi nghiệp thuộc các ngành nghề, tập hợp được đông đảo 
chuyên gia khởi nghiệp trong và ngoài nước, kể cả chuyên gia nước ngoài để hoạch 
433 
định chính sách và đề xuất khuôn khổ vận hành, giải pháp và công cụ khởi nghiệp 
phù hợp với điều kiện Việt Nam. Hệ thống thông tin, sàn giao dịch khởi nghiệp cần 
được xây dựng và kết nối liên thông trong nước và ngoài nước, tiếp cận hấp dẫn và 
thuận lợi đối với tất cả các đối tượng quan tâm. Các loại quỹ hỗ trợ khởi nghiệp như 
quỹ mạo hiểm, quỹ đầu tư thiên thần, vườn ươm khởi nghiệp, lồng ấp chủ khởi 
nghiệp cần được xây dựng để tạo điều kiện cho những cá nhân, tổ chức có nhu cầu 
khởi nghiệp có thể trải nghiệm, loại bỏ các bước đi thăm dò và mò mẫm ban đầu. Có 
thể có biện pháp khuyến khích khởi nghiệp ở nước ngoài và chuyển giao các mô 
hình khởi nghiệp đó về Việt Nam. Việc tăng cường công tác truyền thông về xây 
dựng và phát triển một quốc gia khởi nghiệp thực sự cần được đầu tư nhiều hơn để 
nâng cao nhận thức và tạo dư luận ủng hộ khởi nghiệp từ nhà trường, gia đình, xã 
hội, tổ chức và từng người dân. 
Đối với chủ khởi nghiệp, cần xác định khởi nghiệp là một công việc phức 
tạp, bên cạnh lạc quan và niềm tin về sự thành công do nhận được sự ủng hộ cao 
nhất của Chính phủ còn đòi hỏi chủ khởi nghiệp tự rèn luyện bản lĩnh của chủ 
khởi nghiệp như luôn đặt mục tiêu cao và rõ ràng để phấn đấu, sẵn sàng chấp 
nhận rủi ro và biết tận dụng, khai thác cơ hội đúng thời điểm. Điều này đòi hỏi 
có môi trường rèn luyện và hướng dẫn, tư vấn khởi nghiệp phù hợp. Các mô hình 
cá nhân khởi nghiệp thành công từ các ngành nghề thông thường đến các lĩnh 
vực công nghệ cao, chuyên sâu cần được tổng kết và nhân thành điển hình để 
từng cá nhân có thể học hỏi. Đồng thời, từ kinh nghiệm quốc tế có thể xây dựng 
thói quen kiểm định năng lực nhận thức và hành động theo các tiêu chí đánh giá 
thành công và thất bại của khởi nghiệp để điều chỉnh chiến lược, chính sách, thái 
độ, hành vi cũng như rèn luyện kỹ năng ứng xử trong các tình huống phức tạp kể 
cả ở trong trạng thái bất định, khó lường. Ngoài kỹ năng cứng về kiến thức, cần 
có kỹ năng dự báo thị trường, kỹ năng kết nối quan hệ, kỹ năng phân tích cơ hội 
và kỹ năng sử dụng các nguồn lực để sáng tạo giá trị lớn nhất trong cạnh tranh 
khởi nghiệp, tuyệt đối tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại trong khởi nghiệp. 
Tài liệu tham khảo 
1. APEC (2016), Thái Lan 4.0: Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Thái Lan 4.0, truy cập 
lần cuối ngày 8/3/2017, từ: 
. 
2. Diễn đàn kinh tế thế giới (2016), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu, truy 
cập lần cuối ngày 8/3/3017, từ: <https://www.weforum.org/reports/the-global-
competitiveness-report-2016-2017-1>. 
434 
3. Đại học Kinh tế Quốc dân (2016), Bài trình bày của chuyên gia Hàn Quốc về 
phương pháp định giá tài sarntris tuệ. Phòng họp A gác 2 nhà 10. Phần về 
“thung lũng chết” khi đưa sản phẩm đổi mới sáng tạo vào thị trường. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011, 2016), Văn kiện Đại hội XI, XII. Nhà xuất 
bản Chính trị quốc gia. 
5. CBInsight, 20 lý do hàng đầu để khởi nghiệp thất bại, truy cập lần cuối ngày 8 
tháng 3 năm 2017, từ: . 
6. Chính phủ (2016), Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng 05 năm 2016 về 
việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc 
gia đến năm 2025”, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2016, từ: 
<
ph%E1%BB%A7-h%E1%BB%97-tr%E1%BB%A3-h%E1%BB%87-sinh-
th%C3%A1i-kh%E1%BB%9Fi-nghi%E1%BB%87p.aspx>. 
7. Chính phủ (2015), Đề án Thương mại hóa công nghệ với quy mô dự án khoa 
học và công nghệ cấp quốc gia đến năm 2020. 
8. European Young Innovators Forum (2014), Đạo luật khởi nghiệp của Châu Âu, 
truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ: <
content/uploads/European-Startup-Act-2020.pdf>. 
9. Forbe (2013), Khởi nghiệp là gì?, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ: < 
https://www.forbes.com/sites/natalierobehmed/2013/12/16/what-is-a-
startup/#11e0dc4e4044>. 
10. Harvard University (2011), Startup Guide, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, 
từ: . 
11. Imal Y., Kawagoe M., (2000), Khởi sự kinh doanh ở Nhật Bản: vấn đề và 
chính sách, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ < 
file:///C:/Documents%20and%20Settings/Admin/My%20Documents/Downlo
ads/OREP-imai-kawagoe.pdf>. 
12. Ministry of Commerce and Industry of India (2016), The Gazette of India, 
truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2016, từ: 
<
otification.pdf>. 
13. Quốc hội (2016), Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cổng thông tin điện tử 
Chính phủ. 
14. Trung tâm phát triển công nghệ và kinh doanh nhỏ (2015), Khởi nghiệp kinh 
doanh ở Bắc Carôlina, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2017, từ 
. 
15. Viện phát triển bền vững quốc tế spen (2006), các yếu tố thành công của 
khởi nghiệp, truy cập lần cuối từ ngày 8 tháng 3 năm 2017, từ: 
. 
16. Wikipedia (2007), Khởi nghiệp là gì? truy cập lần cuối ngày 10 tháng 3 năm 
2017, từ: . 

File đính kèm:

  • pdfthanh_cong_va_that_bai_cua_khoi_nghiep_mot_so_kinh_nghiem_nu.pdf