Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 14 - Tháng 10/2019
I. GIỚI THIỆU
Nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) là loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao, thị trường xuất khẩu lớn được Hội đồng quản lý biển quốc tế (Marine Stewward Councel) cấp chứng nhận đạt tiêu chí MSC. Tuy nhiên, vấn đề sản xuất giống nhân tạo và ương nuôi loài nghêu này vẫn còn nhiều khó khăn. Vì tỷ lệ sống còn thấp, phụ thuộc nhiều vào thức ăn tự nhiên. Vi tảo là thức ăn chủ yếu được sử dụng cho tất cả các giai đoạn tăng trưởng của động vật thân mềm hai mảnh. Kích thước tảo tối đa ấu trùng lọc được liên quan đến kích thước cơ thể ấu trùng (LoraVilchis & Maeda-Martinex, 1977). Theo Helm và ctv., (2004), chế độ ăn thích hợp cho việc ương ấu trùng chữ D - veliger và giai đoạn đầu (chiều dài vỏ < 125="" µm)="" của="" các="" loài="" nhuyễn="" thể="" hai="" mảnh="" vỏ="" là="" kết="" hợp="" một="" trong="" các="" loài="" tảo="" silic:="" chaetoceros="" calcitrans,="" thalassiosira="" sp.="" (="" cho="" ấu="" trùng=""> 55µm) hoặc Chaetoceros muelleri (cho ấu trùng >90µm) với Isochrysis galbana hoặc Pavlova lutheri với tỷ lệ bằng nhau theo số lượng tế bào. Theo Laing, Lees và ctv., (2004), có 5 loài tảo silic (C. calcitrans, C.muelleri, C.ceratosporum, Thalassiosira sp. và Skeletonema costatum) đều chứa hàm lượng PUFA cao phù hợp với ấu trùng nhuyễn thể. Hai loài có giá trị dinh dưỡng cao nhất là C.calcitrans và Thalassiosira sp. He và Wei (1984) nghiên cứu thức ăn và tập tính ăn của ấu trùng nghêu Nhật hay còn gọi là Nghêu Manila (Venerupis philippinarum, Ruditapes philippinarum) cho thấy chúng thích ăn tảo silic đơn bào sống đáy. Chế độ ăn có sự phối trộn hỗn hợp các loại tảo có lợi, hai hoặc ba loài có giá trị dinh dưỡng cao, trong đó có một loài tảo silic có kích thước phù hợp góp phần cải thiện tốc độ tăng trưởng và phát triển của ấu trùng so với chế độ cho ăn một loài. Thalassiosira sp. là loài tảo khuê đơn bào, có giá trị dinh dưỡng rất cao, đặc biệt là các acid béo không no đa nối đôi với hàm lượng DHA và EPA đạt 7,2 mg/ml (Li, 1979 & Pratoomyot, 2005). Trong điều kiện nuôi nhân tạo, Thalassiosira sp. có tốc độ sinh trưởng nhanh, thích ứng tốt với sự thay đổi của môi trường như: pH, ánh sáng, nhiệt độ (Brown, 1996). Việc nuôi sinh khối loài vi tảo này để đa dạng nguồn thức ăn tự nhiên cho sản xuất giống thủy sản là rất cần thiết
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 14 - Tháng 10/2019
Trung (Bảng 5) thì có 360 ý kiến cho rằng nơi cá tỳ bà bướm sinh sống là vùng núi nơi có nước chảy xiết. Mùa khô là thời điểm thuận lợi cho việc khai thác cá tỳ bà bướm. Trong tự nhiên, cá sinh sản tập trung vào khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 7 trong năm. Khoảng thời gian này, thời tiết miền trung có mưa giông nên nhiệt độ thay đổi (từ cao xuống thấp) và đây có thể là điều kiện để cá tỳ bà bướm sinh sản. Kết quả ghi nhận này trùng với thông tin phỏng vấn từ người đánh bắt là khi có mưa giông thì cá tỳ bà bướm đẻ rất nhiều. Sản lượng khai thác cá tập trung nhiều ở Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam càng vào miền nam thì sản lượng khai thác cá ít dần. Thành phố Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ chính cá tỳ bà bướm được thu thập tại miền Trung. 3.4. Định danh loài Đã xác định được 3 loài trong các mẫu được thu thập dựa theo khóa định loại CITES Identification Guide to the Fresh water Fish và hệ thống định loại của FAO. 3.4.1. Cá tỳ bà bướm đốm (Hình 3) Bộ: Cypriniformes Họ: Balitoridae Giống: Sewellia Loài: Sewellia speciosa Roberts, 1998 Tên tiếng anh: Spotted butterfly loach Tên tiếng việt: Cá tỳ bà bướm đốm Bảng 6. Các chỉ tiêu đo cá tỳ bà bướm đốm Sewellia speciosa Roberts, 1998 Chỉ tiêu Kích thước đo (mm) Max Min Trung bình Chiều dài chuẩn 60 38 48,90 ± 7,76 Chiều dài đầu 11 8 10,00 ± 2,12 92 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Chiều cao đầu 6 4 5,16 ± 0,87 Chiều dài cuốn đuôi 12 8 10,00 ± 1,58 Chiều cao đuôi 6,5 3,5 5,20 ± 1,35 Chiều rộng miệng 3 2 2,64 ± 0,6 Kết quả phân tích dựa vào hình thái học như sau: Vây lưng 9 tia, vây ngực 23 tia, vây bụng 19 tia. Không sọc đen trên thân. Không có dãy đồng tâm trên vây ghép (vây ngực và vây bụng). Gốc vây bụng ngang gốc vây lưng. Những mảng nhỏ nhô lên cao trên các tia vây ngực đầu tiên (các nốt nhỏ). Có nhiều đốm trên thân. Vây bụng đến gốc vây hậu môn. Thân và các vây có nhiều đốm nhỏ màu vàng trên nền nâu sẫm. Bảng 7. Các đặc điểm hình thái của cá tỳ bà bướm đốm Sewellia speciosa Roberts, 1998 Chỉ tiêu Kết quả phân tích đề tài Cá tỳ bà bướm đốm (Sewellia speciosa) Roberts, 1998 Nguyễn Văn Hảo, 2005 Vây lưng 9 - 9 Vây ngực 23 20 – 22 23 Vây bụng 19 Vây bụng đến gốc vây hậu môn 19 Vây bụng chạm gốc vây hậu môn 19 So sánh kết quả phân tích dựa vào hình thái học của loài cá nghiên cứu với chỉ tiêu hình thái phân loại của Roberts (1998), Nguyễn Văn Hảo (2005) cho thấy các chỉ tiêu hình thái của cá chúng tôi thu thập tương đồng với loài Sewellia speciosa Roberts, 1998. 3.4.2. Cá tỳ bà bướm hổ (Hình 4) Bộ: Cypriniformes Họ: Balitoridae Giống: Sewellia Loài: Sewellia lineolata (Valenciennes, 1846) Tên tiếng anh: Butterfly loach Tên tiếng việt: Cá tỳ bà bướm hổ Bảng 8. Các chỉ tiêu đo cá tỳ bà bướm hổ Sewellia lineolata (Valenciennes, 1846) Chỉ tiêu Kích thước đo (mm) Max Min Trung bình Chiều dài chuẩn 55 35 42,75 ± 6,55 Chiều dài đầu 11 6,5 9,00 ± 1,87 Chiều cao đầu 6 4 4,89 ± 0,85 Chiều dài cuốn đuôi 11,5 7 9,63 ± 1,49 Chiều cao đuôi 5 3,5 4,25 ± 0,65 Chiều rộng miệng 2 1,5 1,70 ± 0,24 93TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 9. Các đặc điểm hình thái của cá tỳ bà bướm hổ Sewellia lineolata (Valenciennes, 1846) Chỉ tiêu Kết quả phân tích đề tài Cá tỳ bà bướm hổ (Sewellia lineolata) Kottelat, 1994 Nguyễn Văn Hảo, 2005 Vây lưng 9 8 7 Vây ngực 20 - 21 21 – 22 20 - 21 Vây bụng 17 - 18 17 - 18 17 - 18 Kết quả phân tích dựa vào hình thái học như sau: Có 3 sọc đen đậm trên thân. Có 2 dãy đồng tâm trên vây ngực và vây bụng (vây ghép). Gốc vây bụng ngang gốc vây lưng. Những mảng nhỏ nhô lên cao trên các tia vây ngực đầu tiên. Gốc vây ngực cách xa mép miệng. Vây lưng 9 tia, vây ngực 20 – 21 tia, vây bụng 17 – 18 tia. Vây bụng đến gốc vây hậu môn. Kết quả phân tích dựa vào hình thái học của loài cá nghiên cứu với chỉ tiêu hình thái phân loại của Kottelat (1994), Nguyễn Văn Hảo (2005) cho thấy các chỉ tiêu hình thái của cá chúng tôi thu thập cũng tương đồng với loài tỳ bà bướm hổ Sewellia lineolata (Valenciennes, 1846). 3.4.3. Cá tỳ bà bướm beo (Hình 5) Bộ: Cypriniformes Họ: Balitoridae Giống: Sewellia Loài: Sewellia elongate Roberts, 1998 Tên tiếng anh: Satr butterfly loach Tên tiếng việt: Cá tỳ bà bướm beo Bảng 10. Các chỉ tiêu đo cá tỳ bà bướm beo Sewellia elongate Roberts, 1998 Chỉ tiêu Kích thước đo (mm) Max Min Trung bình Chiều dài chuẩn 55 31 40,4 ± 12,1 Chiều dài đầu 13 6 9,1 ± 3,2 Chiều cao đầu 5,5 3 4,2 ± 1,22 Chiều dài cuốn đuôi 14 8 9,2 ± 4,13 Chiều cao đuôi 6,2 3 4,26 ± 1,73 Chiều rộng miệng 2 1,5 1,86 ± 0,26 Kết quả phân tích dựa vào hình thái học như sau: Vây lưng 9 tia, vây ngực 24 – 27 tia, vây bụng 18 – 20 tia. Không có sọc đen. Không có dãy đồng tâm. Gốc vây bụng nằm sau gốc vây lưng. Có các nốt ở 2 bên mõn. Vây bụng vượt qua hậu môn nhưng không đến gốc vây hậu môn. So sánh các chỉ tiêu hình thái trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy loài cá chúng tôi thu thập có điểm tương đồng với loài cá tỳ bà bướm beo Sewellia elongate Roberts, 1998 (Bảng 11). 94 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 11. Các đặc điểm hình thái của cá tỳ bà bướm beo Sewellia elongate Roberts, 1998 Chỉ tiêu Kết quả nghiên cứu của chúng tôi Cá tỳ bà bướm beo (Sewellia elongate) Roberts, 1998 Vây lưng 9 - Vây ngực 24 – 27 22 – 24 Vây bụng 18 - 20 20 IV. THẢO LUẬN Cá tỳ bà bướm (Sewellia) là giống cá nước ngọt bản địa tại Việt Nam đã và đang được khai thác vụ phục cho xuất khẩu. Tuy nhiên các nghiên cứu về cá tỳ bà bướm cho đến nay vẫn chưa được quan tâm nhiều. Theo ghi nhận từ các tài liệu hiện có, những nghiên cứu về cá tỳ bà bướm mới chỉ dừng lại ở mức độ phân loại, phân bố và nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của cá. Hiện nay việc định danh các loài cá tỳ bà bướm còn có nhiều điểm chưa thông nhất. Nghiên cứu mới nhất của Võ Điều và ctv., (2019) đã kết luận rằng hai loài cá tỳ bà bướm (giống Sewellia) phân bố ở Thừa Thiên Huế là tỳ bà bướm hổ có tên khoa học là Sewellia lineolata Valenciennes, 1846 và tỳ bà bướm đốm có tên khoa học là Sewellia albisuera Freyhof, 2003. Tuy nhiên, khi so sánh kết quả phân loại của hai loài trên với một số kết quả nghiên cứu khác thì có một số điểm không tương đồng đặc biệt là loài cá tỳ bà bướm đốm. Kết quả nghiên cứu định danh của chúng tôi cho rằng, cá tỳ bà bướm hổ có tên khoa học là Sewellia lineolata Valenciennes, 1846 và tỳ bướm đốm có tên khoa học là Sewellia speciosa Roberts, 1998. Kết quả định danh cá tỳ bà bướm đốm của chúng tôi giống với kết quả so sánh hình thái phân loại của một số tác giả Vũ Cẩm Lương (2008), Nguyễn Văn Hảo (2005), Kottelat (1994) cũng cho rằng cá tỳ bà bướm đốm có tên khoa học là Sewellia speciosa Roberts, 1998. Mẫu cá tỳ bà bướm beo chúng tôi thu thập tại Bình Định có tên khoa học là Sewellia elongate Roberts, 1998. Đây là loài phân bố duy nhất tại tỉnh Bình Định. Theo như tài liệu tổng hợp trong các loài thuộc giống Sewellia, Việt Nam có đến 8 loài, phân bố của các loài ở khu vực miền trung. Tuy nhiên theo kết quả điều tra tại 6 tỉnh miền trung của chúng tôi, hiện nay ngoài tự nhiên chỉ thu thập được 3 loài cá tỳ bà bướm (hổ, đốm và beo). Điều này có thể do một số loài cá tỳ bà khác đã không còn do môi trường sống ngoài tự nhiên thay đổi, do con người khai thác quá mức làm suy kiệt nguồn lợi này. Ngoài ra, cũng có thể do giới hạn đề tài nên chúng tôi chưa đi điều tra hết tất cả các con suối nơi cá tỳ bà bướm sinh sống nên chưa thu thập được tất cả các loài thuộc giống Sewellia. Cá tỳ bà bướm là loài phân bố ở các con suối nước ngọt, nơi có dòng chảy mạnh và có hàm lượng oxy hòa tan cao từ Huế vào Phú Yên. Trong đó, cá tỳ bà bướm hổ phân bố từ Huế đến Phú Yên, cá tỳ bà bướm đốm ở Huế và Đà Nẳng, cá tỳ bà bướm beo chỉ có ở Bình Định và sản lượng cá ít hơn so với hai loài còn lại. Hiện nay, ba loài cá tỳ bà bướm được chúng tôi thu thập đã và đang được người dân khai thác để phục vụ cho thị trường cá cảnh. Cá sống ở khe suối, nước chảy mạnh nên điều kiện thời tiết ảnh hưởng trực tiếp đến mùa vụ khai thác cá. Mùa khô nước cạn, chảy nhẹ, thuận lợi cho việc Hình 3. Cá tỳ bà bướm đốm Hình 4. Cá tỳ bà bướm hổ Hình 5. Cá tỳ bà bướm beo 95TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II khai thác cá, vào mùa mưa nước chảy rất mạnh và nguồn nước lại sâu nên việc khai thác cá gặp nhiều khó khăn. Theo kết quả phỏng vấn người đánh bắt cá cho thấy, vào mùa mưa có nhiều đơn hàng đặt mua cá với giá khá cao nhưng lượng cá khai thác không đủ để cung cấp. Chính vì vậy đã tạo nên tính mùa vụ của cá tỳ bà bướm ở thị trường cá cảnh TpHCM và xuất khẩu. Trong các loài cá tỳ bà bướm khai thác cho xuất khẩu hiện nay thì cá tỳ bà bướm hổ (Sewellia lineolata) là loài được khai thác nhiều nhất để phục vụ cho xuất khẩu (Nguyễn Duy Thuận và ctv., 2018). Với tình trạng khai thác quá mức mà không có sự can thiệp của chính quyền địa phương nên nguồn cá ngoài tự nhiên ngày càng giảm dần về sản lượng khai thác hằng năm và có nguy cơ tuyệt chủng nguồn lợi này. Căn cứ vào các kết quả trên chúng tôi khẳng định ba loài cá tỳ bà bướm đã thu thập tại 6 tỉnh miền Trung trong nghiên cứu này là Sewellia lineolata Valenciennes, 1846 (cá tỳ bà bướm hổ), Sewellia speciosa Roberts, 1998 (cá tỳ bà bướm đốm), Sewellia elongate Roberts, 1998 (cá tỳ bà bướm beo). V. KẾT LUẬN Cá tỳ bà bướm phân bố ở các con suối nơi có nước chảy xiết tại các tỉnh miền trung, các yếu tố môi trường sống của cá bao gồm: nhiệt độ nước 22o – 25oC, pH nước 6,0, DO 4mg/L, độ cứng 53,7 mgCaCO 3 /L, độ trong 20 – 80 cm, tốc độ dòng chảy một chiều 0,38 – 0,42. Mùa vụ khai thác cá chủ yếu là mùa nắng, cỡ cá khai thác từ 3 - 4 cm. Sản lượng khai thác cá tỳ bà bướm ngày càng giảm và có nguy cơ cạn kiệt nguồn cá ngoài tự nhiên. Việc khai thác cá không có sự quản lý của chính quyền địa phương. Đã định danh được 3 loài cá tỳ bà bướm trong các mẫu cá thu tại 6 tỉnh miền Trung: Cá tỳ bà bướm beo (Sewellia elongate Roberts, 1998), cá tỳ bà bướm hổ (Sewellia lineolata Valenciennes, 1846) và cá tỳ bà bướm đốm (Sewellia speciosa Roberts, 1998). VI. KIẾN NGHỊ Cần tiếp tục nghiên cứu thuần dưỡng môi trường sống của cá trong điều kiện nhân tạo để hướng đến nghiên cứu sinh sản loài cá này để phục vụ cho xuất khẩu cá cảnh và bảo tồn cá tỳ bà bướm ngoài tự nhiên. LỜI CẢM ƠN Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao đã hỗ trợ kinh phí cho thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Võ Điều, Trần Văn Việt, Phan Đỗ Dạ Thảo, 2019. Định danh thành phần loài cá tỳ bà bướm (Sewellia spp.) phân bố ở Thừa Thiên Huế dựa trên đặc điểm hình thái và DNA mã vạch. Tạp chí Khoa học đại học Huế, 3C, trang 1 -12. Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt Nam, tập II. NXB. Nông nghiệp Hà Nội. Vũ Cẩm Lương, 2008. Cá cảnh nước ngọt. NXB Nông Nghiệp. 263 trang. Võ Văn Phú và Nguyễn Duy Thuận, 2009. Cấu trúc thành phần loài cá ở hệ thống sông Ô Lâu, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí khoa học Đại học Huế, 55, 61–71. Nguyễn Duy Thuận, Võ Văn Phú và Vũ Thị Phương Anh, 2018. Dẫn liệu về thành phần loài cá xương (Osteichthys) ở khu bảo tồn Sao la, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, chuyên đề: Thủy sản, 54(2), 7–18. Tài liệu tiếng Anh Freyhof, J., 2003. Sewellia albisuera a new balitorid loach from Central Vietnam (Cypriniformes: Balitoridae). Ichthyol. Explor. Freshwaters v. 14 (no.3): 225 – 230. Kottelat M., 1994. Rediscovery of Sewellia lineolata in Annam, Viet Nam (Teleostei: Balitoridae), Zoologische Mededelingen, 68(11), 109–112. Rainboth, W.J., 1996. FAO species identification field guide for fisheries purpose. Fish of the Cambodian Mekong. FAO, Rome. 265p. Roberts, T.R., 1998. Systematic revision of the Balitorid loach genus Sewellia of Vietnam and laos, with diagnoses of four new species. Raffles Bulletin of Zoology 46(2): 271-288. 96 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 1 The Research & Development Center for High Technology Agriculture * Email: lienkimnguyen85@gmail.com INVESTIGATION, COLLECTION AND IDENTIFICATION SOME SPECIES BELONG TO Sewellia spp. AT THE CENTRAL PROVINCES OF VIETNAM Nguyen Thi Kim Lien1*, Truong Thi Thuy Hang1, Ngo Khanh Duy1 ABSTRACT The study aims to investigate the natural conditions of distribution, the exploitation and identification of fishs belonging to to Sewellia spp. groups collected in Hue, Da Nang, Quang Nam, Quang Ngai and Phu Yen (six central provinces of Vietnam). The study consists of two main contents: Fristly, to investigate the natural conditions of distribution and the exploitation of Sewellia spp. in the six central provinces by fisher survey in the study sites through questionnaires; Secondly, taxonomic identification of the Sewellia spp. collected based on CITES Identification Guide to the Fresh water Fish and FAO classification system. The result demonstrated that the topography of the fish distributed in the six central provinces is the same, all are waterstreams in the mountain areas. Fish are distributed at the upstream and downstream of streams flowing through the forest from Hue to Phu Yen, many fishs stick on the rocks where the water flow is fast, and fish distribution at the upstream are more concentrated than that at the downstream. The habitat of fish distribution area is the forest where waterstream flowthrough. The mossy rocky bottom is the main food source for fish. The area where the fish live often has high level of light suitable for algae development and served as the food source for the fish. The water quality factors recorded: temperature of 22 - 250C, DO 4 ppm, water pH 5.5, water hardness 53.7 mgCaCO 3 /l, the one-way flow rate ranging from 0.36 to 0.42 m/s. The fishing season is the sunny season from March to October of the solar calendar, the fish has exploited at size ranging from 3 to 4 cm, the catch production has been decreasing from 2003 to the present. Identified three species of fish from Sewellia spp: Sewellia lineolata, Sewellia speciosa and Sewellia elongate. Keywords: Butterfly, investigation, natural conditions, exploitation, identification. Người phản biện: TS. Nguyễn Phúc Cẩm Tú Ngày nhận bài: 17/10/2019 Ngày thông qua phản biện: 26/10/2019 Ngày duyệt đăng: 31/10/2019 Người phản biện: PGS.TS. Trần Đắc Định Ngày nhận bài: 14/10/2019 Ngày thông qua phản biện: 26/10/2019 Ngày duyệt đăng: 31/10/2019
File đính kèm:
- tap_chi_nghe_ca_song_cuu_long_so_14_thang_102019.pdf