Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 11 - Tháng 7/2018
I. GIỚI THIỆU Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là loài cá nuôi nước ngọt quan trọng. Tính đến hết năm 2017, diện tích nuôi cá tra đạt 6.078 hécta với sản lượng 1,26 triệu tấn, và kim ngạch xuất khẩu (tới 142 quốc gia và vùng lãnh thổ) đạt 1,78 tỷ đô la Mỹ (VASEP, 2018). Chương trình chọn giống cá tra đã được thực hiện từ năm 2001 với 3 quần thể chọn lọc song song (Van Sang và ctv., 2007). Tính đến năm 2014, việc chọc lọc đã được thực hiện qua 2–3 thế hệ. Việc duy trì nhiều quần thể chọn lọc gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý và chi phí thực hiện. Việc hợp nhất các quần thể hiện tại là cần thiết nếu đảm bảo được các mục tiêu của chương trình chọn giống như duy trì hệ số cận huyết, tích lũy di truyền để phục vụ cho chọn lọc dài hạn. Do đó, mục tiêu của Báo cáo là xác định tỉ lệ tối ưu ghép phối nội bộ và ghép phối chéo giữa các quần thể cá tra bố mẹ G2-2002, G2-2003 và G3- 2001 bằng nghiên cứu mô phỏng sử dụng phần mềm QMSim (Sargolzaei và Schenkel, 2013) để thành lập một quần thể chọn giống duy nhất (G3) theo tính trạng tăng trưởng. Ngoài ra nghiên cứu cũng xác định tỉ lệ tối ưu ghép phối của quần thể G3 và quần thể mới thành thục G3-2002.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Các quần thể chọn giống thực tế Các quần thể ban đầu G0-2001, G0-2002 và G0-2003 với số lượng gia đình lần lượt là 75, 79 và 101 được sản xuất từ cá bố mẹ thuộc 4 trại sản xuất giống ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đối với quần thể 2001, đã chọn giống qua 3 thế hệ bao gồm G1-2001, G2-2001 và G3-2001. Quần thể 2002 cũng đã được chọn lọc qua 3 thế hệ tương 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản ứng là G1-2002, G2-2002 và G3-2002. Riêng quần thể 2003, do được thành lập muộn nhất nên mới chỉ chọn lọc qua 2 thế hệ G1-2003 và G2- 2003. Nghiên cứu này có 2 bước. Bước 1, tích hợp 3 quần thể G3-2001, G2-2002 và G2-2003 thành 1 quần thể chọn giống G3 duy nhất. Bước 2, tích hợp quần thể G3-2002 vào quần thể G3. 2.2. Phần mềm QMSim Mô phỏng được thực hiện bằng phần mềm QMSim (Sargolzaei và Schenkel, 2013). QMSim là một phần mềm chuyên biệt để mô phỏng các quần thể động vật từ mức độ di truyền đến mức độ phân tử và chức năng mô phỏng các quần thể ban đầu (historical populations). Mức độ phân tử bao gồm khả năng định hình các nhiễm sắc thể với QTL (Quantitative Trait Loci) và bản đồ của các chỉ thị (marker maps). Tuy nhiên trong nghiên cứu này thì QMSim chỉ được dùng để mô phỏng các quần thể bao gồm các cá thể được sắp xếp theo cấu trúc định sẵn, trong đó từng cá thể có kiểu hình và giá trị chọn giống. QMSim được thiết kế để mô phỏng các quần thể lớn, nhiều thế hệ, và có phả hệ phức tạp. Quy trình mô phỏng của QMSim có hai bước chính. Đầu tiên, một quần thể ban đầu được mô phỏng. Tiếp theo, cấu trúc các quần thể của các thế hệ tiếp theo cho đến thế hệ hiện tại được mô phỏng. Trong quá trình mô phỏng của các quần thể, QMSim cho phép nhiều tùy chọn phục vụ cho chọn giống. Chương trình vận hành khá hiệu quả về thời gian tính toán và yêu cầu về bộ nhớ trong của máy tính
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 11 - Tháng 7/2018
ang nuôi 7 Labiobarbus spilopleura (Smith,1934) Cá linh rìa Tự nhiên 8 Henicorhynchus siamensis (deBeaufort, 1927) Cá linh ống Tự nhiên 9 Morulius chrysophekadion (Bleeker,1850) Cá ét mọi Tự nhiên 10 Hemibagrus wyckioides (Chaux and Fang, 1949) Cá lăng đỏ Đang nuôi 11 Hemibagrus nemurus (Valenciennes, 1839) Cá lăng nha Đang nuôi 12 Ompok bimaculatus (Bloch,1797) Cá trèn bầu Tự nhiên 13 Wallago attu (Schneider,1801) Cá leo Tự nhiên 14 Pangasius siamensis (Steindachner,1879) Cá xác xiêm Tự nhiên 15 Clarias macrocephalus (Gunther,1864) Cá trê vàng Đang nuôi 16 Clarias batrachus (Linnaeus,1758) Cá trê trắng Đang nuôi 17 Monopterus albus (Zuiew,1793) Lươn Đang nuôi 18 Mastacembelus armatus (Lacepede,1800) Cá chạch lấu Tự nhiên 19 Pristolepis fasciatus (Bleeker,1851) Cá rô biển Tự nhiên 106 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 20 Oxyeleotris marmoratus (Bleeker,1852) Cá bống tượng Đang nuôi 21 Anabas testudineus (Bloch,1792) Cá rô đồng Đang nuôi 22 Channa striata (Bloch,1795) Cá lóc đồng Đang nuôi 3.2. Hiện trạng nguồn lợi thủy sản trên các sinh cảnh phân bố thuộc khu bảo tồn 3.2.1. Nghề khai thác Lực lượng khai thác trong khu bảo tồn hiện nay là ngư dân, người dân tộc ở địa phương, những ngư dân này đa số là người dân di cư tự do có nguồn gốc từ khắp mọi miền của đất nước và rất đông bà con Việt kiều trở về từ Campuchia đến đây định cư sinh sống và hoạt động nghề cá. Theo kết quả điều tra thống kê từ 437 hộ ngư dân, kết quả khảo sát cho thấy có 18 loại ngư cụ khai thác thủy sản được ngư dân sử dụng trong khu vực Hồ Trị An. Các loại ngư cụ tham gia đánh bắt cá được chia làm 2 nhóm chính: nhóm ngư cụ đánh bắt thụ động (câu, lợp và vó) chiếm khoảng 33% tổng số ngư cụ của các hộ khảo sát và nhóm ngư cụ đánh bắt chủ động (cào, lưới, và te) chiếm khoảng 67%. Giá trị trung bình của một loại ngư cụ dao động từ 5-7 triệu đồng/ngư cụ, cao nhất nghề te khoảng 11,5 triệu/ngư cụ. Mỗi loại ngư cụ hoạt động trung bình từ 20-23 ngày/tháng, trong đó cào dép có sản lượng khai thác hàng ngày cao nhất trung bình 51 ± 9 kg/ ngày. Thu nhập từ các loại ngư cụ có sự biến động lớn, không đồng đều giữa các loại hình. Đối với nghề lưới dù 7-10 cm có thu nhập bình quân 512.000 ± 839.000 đồng/ngày/ngư cụ, và nghề te/dồn/ủi có thu nhập bình quân 344.000 ± 160.000 đồng/ngày/ngư cụ. 3.2.2. Nghề nuôi trồng Các đối tượng thủy sản được nuôi tại lồng hồ Bên cạnh việc khai thác thủy sản tự nhiên trong hồ, các nông hộ còn tham gia nuôi 12 đối tượng thủy sản tại khu vực hồ (Bảng 4). Ba loại đối tượng thủy sản được nhiều người nuôi phổ biến nhất là cá lóc, baba và cá lăng chiếm tỉ lệ lần lượt là 44,4%; 22% và 17,4% tổng số hộ điều tra xác nhận. Tuy nhiên, các loài nuôi phổ biến này có trung bình sản lượng nuôi của nông hộ không cao bằng một số loài nuôi khác như cá thát lát có sản lượng trung bình cao nhất 32.050 kg/năm/hộ, kế tiếp là cá mè vinh với 22.125 kg/ năm/hộ và cá lóc bông với 10.133 kg/năm/hộ. Bảng 4: Các đối tượng thủy sản được nuôi tại lồng hồ STT Các đối tượng nuôi Phần trăm số hộ Sản lượng (kg/năm/hộ) 1 Cá lóc đồng 44,40 8.378 2 Baba 21,99 1.940 3 Cá lăng 17,43 6.198 4 Cá nàng hai 4,15 5.667 5 Cá thát lát 2,90 32.050 6 Cá lóc bông 1,66 10.133 7 Cá leo 1,66 8.975 8 Cá mè vinh 1,66 22.125 9 Cá rô phi 1,24 360 10 Cá sấu 1,24 567 11 Cá chép 0,83 6.500 12 Cá điêu hồng 0,83 6.500 107TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Các loại hình nuôi Trong tổng số 12 loại đối tượng thủy sản kể trên chúng được nuôi ở 3 hình thức khác nhau gồm nuôi bè, nuôi ao và nuôi khác (bể xi măng, lót bạt). Mô hình nuôi phổ biến nhất là nuôi bè chiếm 67,8% tổng số gồm cá lóc bông, cá rô phi, cá mè vinh Tiếp theo là mô hình nuôi ao chiếm 32% tổng số gồm cá thát lát, cá nàng hai, cá sấu Mô hình còn lại là nuôi bể xi măng hay lót bạt gồm cá lóc đồng và baba. Bảng 5: Các loại hình nuôi STT Loại hình Phần trăm* 1 Bè 67,80 2 Ao 31,71 3 Khác 0,49 * % số hộ điều tra xác nhận vực chính được xem là bãi đẻ (khu vực sinh sản) của các loài cá (Bảng 6). Khu vực Đồi Củ Chi và Đồi 48 là nơi cá sinh sản được nhiều người biết nhất chiếm tỉ lệ lần lượt là 18,9% và 12,6% tổng số hộ điều tra xác nhận. Đây là những khu vực được cho là bãi đẻ của cá với các họ hiện diện là họ cá sơn (Ambassidae), họ cá rô (Anabantidae), họ cá trích (Clupeidae), họ cá chép (Cyprinidae), họ cá bống (Gobiidae). Mật độ cá bột và cá con chiếm tỉ lệ cao tại một số vị trí như: Ùng Trảng B (88,6 con/m3 nước), Eo Bộ Đội (54,5 con/m3 nước), Ùng Ba Thâu (37,8 con/m3 nước), Eo Đồng Trường (22,4 con/m3 nước). Những khu vực này rất quan trọng cho việc sinh sản của cá và làm giàu nguồn lợi thủy sản tự nhiên trong hồ. Vì vậy, trước mắt những nơi này cần được bảo vệ và quản lý ngay từ bây giờ để sau khi có nghiên cứu về loài nào sinh sản nơi nào rồi chọn ra những khu vực bãi đẻ quan trọng nhất để bảo vệ bền vững. Bảng 6: Khu vực cá sinh sản STT Khu vực cá sinh sản Phần trăm (%) (số nông hộ ghi nhận/số nông hộ phỏng vấn)* 1 Đồi Củ Chi 18,92 2 Đồi 48 12,61 3 Thánh Tâm 6,31 4 Trường Đảng 5,41 5 Sa Mách 5,41 6 Khu 481 4,50 7 Đồi Tây Ninh 4,50 8 Đồi Xanh 3,60 9 Đồi Trường 3,60 10 Đồi 96 3,60 11 Cây Điệp 2,70 12 Cầu La Ngà 2,70 13 Bến Phú Cường 2,70 14 Trảng B 1,80 15 Suối Cầu Đôi 1,80 16 Đồi Chùa 1,80 3.2.3. Nơi cá sinh sản Trong tổng số 60 nơi đánh bắt cá (khu vực KTTS) tập trung trong hồ Trị An thì có 35 khu 108 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 17 Đồi Cải Tạo 1,80 18 Ùng Năm Quảng 0,90 19 Suối Tượng 0,90 20 Suối Tre 0,90 21 Suối Ông Bố 0,90 22 Suối Dựng 0,90 23 Suối Đục 0,90 24 Suối 30 0,90 25 Long Thành 0,90 26 Khu Phú Lý 0,90 27 Khu Lợi Hà 0,90 28 Khu 30 0,90 29 Hồ Phụ 0,90 30 Đồi Trị An 0,90 31 Đồi Điều 0,90 32 Đồi Đất Đỏ 0,90 33 Đồi Cá 0,90 34 Đồi C3 0,90 35 Đồi 01 0,90 3.3. Đề xuất quy hoạch phân khu chức năng bãi đẻ Trên cơ sở sự hiện diện của các loài cá, mật độ phân bố cá bột và cá con của các họ có giá trị kinh tế như họ cá sơn (Ambassidae), cá rô (Anabantidae), cá trích (Clupeidae), cá chép (Cyprinidae), cá bống (Eleotridae, Gobiidae) và mức độ ngập của nước tại các vùng bán ngập, đề xuất 8 khu vực vùng bán ngập được xem là bãi đẻ của các loài cá cần được quy họach hành lang bảo tồn ở cao trình mức nước hồ từ 54 - 60 m, bề rộng 1km tại mỗi vị trí từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm như sau: Eo Bộ Đội, Ùng Trảng B, Ùng Sa Mách, Ùng Ba Thâu, Ùng Đồi 96, Eo Đồng Đồng Trường, Đồi Suối Lá và Ùng Suối Tượng. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1. Kết luận Tổng số 99 loài được định danh, thuộc 29 họ và 11 bộ có bộ chiếm ưu thế Cypriniformes (47,47%), kế tiếp Perciformes và Siluriformes (17,17%), tiếp theo là Synbranchiformes (6,06%), các bộ còn lại chiếm tỉ lệ thấp hơn 3% tổng số loài. Họ có loài phong phú nhất là họ Cyprinidae (38 loài), Bagridae (9 loài), Cobitidae (5 loài), ba họ có số loài bằng nhau như Channidae, Mastacembelidae và Siluridae có 4 loài, tất cả các họ còn lại có thành phần loài rất thấp dao động từ 1 đến 3 loài. Có 6 loài cá nằm trong danh mục Sách đỏ Việt nam 2007, có 22 loài cá bản địa có giá trị kinh tế và 10 loài cá ngoại lai hiện diện trong hồ. Có 18 loại ngư cụ khai thác thủy sản được ngư dân sử dụng trong khu vực Hồ Trị An: nhóm ngư cụ đánh bắt thụ động (câu, lợp và vó) chiếm khỏang 33% và nhóm ngư cụ đánh bắt chủ động (cào, lưới, và te) chiếm khoảng 67% tổng số ngư cụ của các hộ khảo sát. Giá trị trung bình của một loại ngư cụ dao động từ 5-7 triệu đồng/ngư cụ, nghề Te/Dồn/Ủi có thu nhập bình quân 344.000 ± 160.000 đồng/ngày/ngư cụ. 109TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Có 12 đối tượng thủy sản được nuôi tại khu vực hồ, ba loại đối tượng thủy sản được nuôi phổ biến nhất là cá lóc, baba và cá lăng chiếm tỉ lệ lần lượt là 44,4%; 22% và 17,4% tổng số hộ điều tra xác nhận. Xác định được 8 khu vực là bãi đẻ của cá cần được quy hoạch bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản của hồ ở cao trình mức nước hồ từ 54 - 60 m, bề rộng 1km tại mỗi vị trí từ tháng 6 đến 10 hàng năm như sau: Eo Bộ Đội, Ùng trảng B, Ùng Sa Mách, Ùng Ba Thâu, Ùng Đồi 96, Eo Đồng Đồng Trường, Đồi Suối Lá và Ùng Suối Tượng. 4.2. Đề xuất Tích cực tuyên truyền các biện pháp bảo vệ nguồn lợi thủy sản đến người dân trong khu bảo tồn và cần có những biện pháp chế tài nghiêm ngặt đối với những hành vi sử dụng ngư cụ đánh bắt cá triệt để phá hủy nguồn lợi thủy sản. LỜI CẢM ƠN Những người thực hiện đề tài xin cám ơn Khu bảo tồn thiên nhiên văn hóa Đồng Nai đã tài trợ cho chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. Nhóm tác giả cũng chân thành cám ơn toàn thể ngư dân và các anh, chị thu mua cá đã nhiệt tình ghi chép vào sổ nhật ký với nội dung theo dõi sản lượng khai thác, mua bán hàng ngày. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Nguyễn Thị Diệu Hiền, 2005. Thành phần loài cá và đặc điểm sinh học của một số loài cá có thể thuần dưỡng làm cá cảnh ở Hồ Trị An, tỉnh Đồng Nai. Luận văn tốt nghiệp đại học. 127 trang. IUCN, 2008. Hướng dẫn quản lý khu bảo tồn thiên nhiên. Một số kinh nghiệm và bài học quốc tế. IUCN Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam, 120 trang. Viện KTQHTS, 2011. Quy hoạch phát triển nghề cá hồ chứa đến năm 2020. Báo cáo quy hoạch. Vũ Cẩm Lương và Lê Thanh Hùng, 2011. Đánh giá sản lượng khai thác qua khảo sát ngư cụ và thành phần loài cá khai thác ở hồ Trị An. Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Văn Trọng, Lâm Ngọc Châu, 2005. Đánh giá khu hệ cá hồ Trị An. Tài liệu tiếng Anh Baird I.G., Kisouvannalath P., Inthaphaysi V., Phylaivanh B., 1998. The potentail for ecological classification as a tool for establishing and monitoring fish conservation zones in the Mekong River. Technical report No.2. Environmental Protection and Community Development in the Siphandone Province, Lao PDR. Chomchanta P., Vongphasouk P., Chanrya S., Soulignavong C., Saadsy B., Warren T.J., 2000. A preliminary assessment of the Mekong Fishery Conservation Zones in the Siphandone area of the Southern Lao PDR, and recommendations for further evaluation and monitoring. LARReC Technical Paper N.0001. Coates D., Ouch Poeu, Ubolratana Suntornratana, Nguyen Thanh Tung & Sinthavong Viravong. 2003. Biodiversity and fisheries in the Lower Mekong Basin. Mekong Development. Series No. 2. Mekong River Commission, Phnom Penh, 30 pages. Hortle, K.G., 2007. Consumption and the yield of fish and other aquatic animals from the Lower. Mekong Basin. MRC Technical Paper No. 16, Mekong River Commission, Vientiane. 87 pp. Kottelat, K., 2001. Fishes of Laos. WHT Publications. 198 pages. Lagler, K.F., 1976. Fisheries and Intergrated Mekong River Basin development. Executive Vol.Append.Vol.I,II. Poulsen, A.F., Hortle, K.G., Valbo-Jorgensen, J., Chan, S., Chhuon, C.K., Viravong, S., Bouakhamvongsa, K., Suntornranata, U., Yoorong, N., Nguyen, T.T. & Tran, Q.B., 2004. ‘Distribution and Ecology of Some Important Riverine Fish Species of the Mekong River Basin’. MRC Technical Paper No.10. Poulsen, A.F., Poeu, O., Viravong, S., Suntornranata, U., Nguyen, T.T., 2002. ‘Fish migrations of the Lower Mekong River Basin: implications for development, planning and environmental management’. MRC Technical Paper No. 8, Mekong River Commission, Phnom Penh. 62 pp. Rainboth, W. J., 1996. Fishes of the Cambodian Mekong. FAO species indentification field guide for fishery purpose. Rome, 265pp. Rainboth, W.J., Vidthayanon, C. and Mai, D.Y., 2012. Fishes of the Greater Mekong Ecosystem with Species List and Photographic Atlas. 110 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Miscellaneous Publications. Museum of Zoology, University of Michigan. 173 pages. Tran Dac Dinh, Shibukawa Koichi, Nguyen Thanh Phuong, Ha Phuoc Hung, Mai Van Hieu, and Utsugi Kenzo, 2013. Fishes of the Mekong Delta, Vietnam. Can Tho University Publishing House. 174 pages. Vidthayanon, C., 2008. Field guide to fishes of the Mekong delta. Mekong River Commission. 288 pages. Vidthayanon, C., Termvidchakorn, A. and Pe, M., 2005. Inland fishes of Myanmar. Southeast Asian Fisheries Development Center. 160 pages. 111TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II EXISTING FISHERIES RESOURCES, EXPLOITATION AND PROTECTION OF FISH BIODIVERSITY BY SETTING UP FUNCTIONAL WETLAND HABITATS OF TRI AN RESERVOIR Nguyen Nguyen Du1* ABSTRACT Tri An reservoir is a part of Dong Nai Nature and Culture Reserve. In addition to the important role in water supply for hydropower plant, this reservoir is also a place to ensure the livelihood of over 5,000 households living around and specializing in fishing and aquaculture. Fisheries biodiversity study for Tri An reservoir was carried out from Mar 2017 to Mar 2018 by daily catch logbook from 33 fishing households at various fishing grounds such as mainstream, rapids, semi-submerged areas, tributaries, and 7 fish whole sellers. The results indicated that 99 fish species belonging to 29 families and 11 orders have been identified in the reservoir, of which Cypriniformes was the highest with 47.47% of total species. There are 6 fish species listed in the Red Book Vietnam 2007 as rare and endangered species; additionally, there are 10 exotic fish species also recorded in the reservoir, among them mouth sucker fish (Pterygoplichthys disjuntivus) and peacock cichlid fish (Cichla ocellaris) are caught with very high production. There are 21 fish species raised in various farming systems, but most commonly in cage culture; 22 indigenous species of fish are also considered to have economic value, accounting for 22.22% of total fish species. There are 18 different types of fishing gear available; 35 wetland habitats have been identified by fishermen as spawning grounds (breeding areas) of fishes. Based on the presence of fish larvae and juveniles and their density distributions, and inundation levels of the reservoir during June – October annually, eight semi- submerged areas at reservoir water levels of 54 – 60 m of MSL are considered as functional wetland habitats for fish spawning and recommended to be under protection. Keywords: Tri An Reservoir, biodiversity, planning, development. Người phản biện: ThS. Nguyễn Văn Trọng Ngày nhận bài: 09/6/2018 Ngày thông qua phản biện: 20/6/2018 Ngày duyệt đăng: 05/7/2018 1 Fisheries Ecological and Aquatic Resources Division, Research institute for Aquaculture No.2 * Email: didzu72@yahoo.com 112 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
File đính kèm:
- tap_chi_nghe_ca_song_cuu_long_so_11_thang_72018.pdf