Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018

TÓM TẮT Một thí nghiệm 26 ngày đã được thực hiện nhằm tìm ra loại chất đáy phù hợp nhất cho ấu trùng trai tai tượng vảy Tridacna squamosa từ giai đoạn ấu trùng bò lê đến con giống cấp 1. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần với 4 nghiệm thức chất đáy khác nhau (lưới 200 µm, đá san hô chết, cát, đáy bể composit) trong các bể 1m³ ở độ mặn 30‰. Mật độ ấu trùng là 5 con/ml. Thức ăn là tảo đơn bào Isochrysis galbana, Chaetoceros sp, tảo cộng sinh. Mật độ cho ăn từ 6.000 đến 9.000 tế bào/ml. Kết quả cho thấy trong 4 loại chất đáy trên thì chất đáy đá san hô chết cho sinh trưởng về chiều cao, tốc độ sinh trưởng tuyệt đối về chiều cao, tỷ lệ hạ đáy và tỷ lệ sống của ấu trùng trai tai tượng vảy cao nhất. Chiều cao ấu trùng trai sau 26 ngày nuôi là 1020,8 µm, tốc độ sinh trưởng tuyệt đối theo chiều cao đạt 34,63 µm/ngày, tỷ lệ hạ đáy là 55,2%, tỷ lệ sống là 42,8%. Từ khóa: chất đáy, giai đoạn sống đáy, trai tai tượng vảy, Tridacna squamosa ABSTRACT A 26- Day experiment has been conducted to fi nd out the most suitable substrate for scaly giant clams Tridacna squamosa‘s larvae from pediveliger stage to spat stage. The experiment was replicated three times with four different substrate treatments (200 μm mesh, dead coral, sand and composite) in 1-m³ tanks, at salinity of 30‰. Larval density was 5 individuals/ml. Feeds were single-celled algae such as Isochrysis galbana, Chaetoceros sp and symbionts at the densities from 6,000 to 9,000 cells/ml. The results showed that in 4 types of the above substrates, the dead coral gave the highest growth in height, absolute growth rate in heith, settement rate and survival rate. The larvae’s average height after 26 days cultured was 1,020.8 µm, the growth rate in the height were 34.63 μm / day, the settlement rate was 55.2% and the survival rate was 42.8%

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 1

Trang 1

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 2

Trang 2

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 3

Trang 3

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 4

Trang 4

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 5

Trang 5

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 6

Trang 6

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 7

Trang 7

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 8

Trang 8

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 9

Trang 9

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 88 trang xuanhieu 3560
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Thủy sản - Số 3/2018
tâm Nhiệt đới Việt – Nga 
(Khánh Hòa) từ tháng 1 – 12 năm 2014 trên 
đối tượng cá khoang cổ lưng yên ngựa - 
Amphiprion polymnus (Linnaeus, 1978)
Nguồn cá thí nghiệm: Thu mẫu ngẫu nhiên 
đại diện cho quần thể theo định kỳ hàng tháng. 
Cá được thuê ngư dân lặn bắt từ tự nhiên tại 
vịnh Nha Trang (số lượng 30 con trở lên/tháng) 
theo các phương pháp nghiên cứu ngư loại 
của Shareck [3], Michael King [10], Pravdin 
[15], Quentin Bon [8]và chuyển về phòng thí 
nghiệm, tiến hành giải phẫu và phân tích số 
liệu tuyến sinh dục cá KCLYN.
2. Phương pháp nghiên cứu
Việc giải phẫu cá được thực hiện tuần tự 
theo quy trình của Viện Nuôi trồng thủy sản, 
Trường Đại học Nha Trang [14]. Mẫu tươi 
tuyến sinh dục cá được quan sát bằng kính soi 
nổi Olympus SZ61 có độ phóng đại tối đa: 14 
đến 90 lần. Chụp ảnh bằng máy ảnh kỹ thuật số 
Canon EOS 650D. Khối lượng cá và tuyến sinh 
dục được cân bằng cân kỹ thuật số Shimazu UX 
-4200H có độ chính xác 0,001g; Kích thước cá 
được đo bằng thước đo điện tử Asaki – AK0129 
có độ chính xác 0,01mm. 
Xác định các giai đoạn chín muồi tuyến sinh 
dục của cá theo thang phát triển tuyến sinh dục 
ở cá xương Nikolskii [12] và Sakun và Butskaya 
[16]. Làm tiêu bản nghiên cứu mô học buồng 
trứng: Lấy mẫu tuyến sinh dục cố định trong 
dung dịch Bouin; Khử nước tuyến sinh dục; 
Đúc Parafi n; Cắt lát mỏng (3-5μm); Nhuộm tiêu 
bản bằng phương pháp HE (Hematoxylin - sắt 
và Hematoxylin - Eosin); Tiêu bản tổ chức học 
của tuyến sinh dục và noãn bào được quan sát 
trên kính hiển vi Olympus CKX51 có cổng kết 
nối camera và có độ phóng đại từ 40 đến 1000 
lần. Chụp ảnh bằng camera kỹ thuật số Olympus 
LC30 kết nối với kính hiển vi. Đo kích thước 
tiêu bản bằng phần mềm đo kích thước tự động 
kết nối với kính hiển vi và máy tính LC30 có độ 
chính xác 0.01µm [14]. 
Xử lý số liệu bằng phần mềm Microsoft 
Excel 2016 để tính toán giá trị trung bình, độ 
lệch chuẩn. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN
Cá KCLYN được phân biệt với các loài 
khác ở màu sắc cơ thể thường có màu đen trắng 
nổi bật với vạch thứ hai có hình như yên ngựa; 
miệng, vây ngực thường có màu cam hoặc đỏ 
cam. Cá khoang cổ lưng yên ngựa KCLYN có 
84 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
tên tiếng Anh: Saddle Back Clown, Saddle-
back Anemonefi sh, Saddleback clownfi sh hoặc 
Saddle Brown Clownfi sh, tên tiếng Việt là: cá 
khoang cổ lưng yên ngựa, cá khoang cổ hề, cá 
khoang cổ yên ngựa, cá khoang cổ sọc. Phân 
bố tại vùng biển cả ba miền Bắc, Trung và Nam 
Việt Nam. Cá KCLYN là loài có kích thước từ 
90-110mm, lớn nhất 125 mm [11]. 
Noãn bào là thành phần chủ yếu và chiếm 
tỷ lệ lớn trong tổ chức buồng trứng. Mức độ 
phát triển của noãn bào là một trong những căn 
cứ để xác định giai đoạn phát triển của buồng 
trứng. Việc phân chia bậc thang chín muồi của 
buồng trứng có thể khác nhau tùy theo tác giả 
hay mức độ chi tiết giữa các giai đoạn phát 
triển và đặc điểm sinh sản của từng loài cá. Tuy 
nhiên, sự phân chia ấy đều dựa trên sự phát 
triển của noãn bào trong buồng trứng. Nhìn 
chung, sự phát triển của noãn bào cá xương có 
thể chia thành 3 thời kỳ chính đó là thời kỳ 
sinh sản noãn nguyên bào, thời kỳ sinh trưởng 
và thời kỳ thành thục. Thời kỳ sinh sản noãn 
nguyên bào là thời kỳ tăng lên về số lượng các 
noãn nguyên bào bằng kiểu phân chia nguyên 
nhiễm nên kích thước noãn nguyên bào không 
tăng. Thời kỳ sinh trưởng là thời kỳ tăng lên về 
nguyên sinh chất và tích lũy chất noãn hoàng. 
Thời kỳ thành thục được xác định khi trứng có 
sự phân cực, màng nhân tan biến và nang trứng 
tách khỏi tế bào trứng. 
Nhiều tác giả tại Việt Nam sử dụng bậc 
thang chín muồi của buồng trứng cá theo 6 giai 
đoạn do tính thích hợp của nó trong việc nhận 
dạng trên mẫu tươi và trên tiêu bản tổ chức học 
[12, 16]. Vì vậy, chúng tôi cũng mô tả sự phát 
triển của noãn bào cá KCLYN dựa theo phân 
chia 6 bậc thang của Nikolskii [12] và Sakun 
và Butskaya [16].
1. Pha 1: Pha nhân - chất nhiễm sắc
Các noãn nguyên bào là những tế bào sinh 
dục khởi nguồn của tất cả tế bào trứng được 
cá đẻ ra sau này. Các noãn nguyên bào trong 
suốt, có hình tròn và có kích thước không lớn, 
không thể nhận thấy các tế bào này bằng mắt 
thường, mà chỉ có thể nhìn thấy chúng trên các 
tiêu bản tế bào dưới độ phóng đại lớn của kính 
hiển vi. Các noãn nguyên bào sinh sản bằng 
kiểu phân chia nguyên nhiễm sẽ tạo ra phần 
dự trữ các tế bào sinh dục. Nhờ đó việc bù đắp 
các tế bào sinh dục sau khi đẻ luôn luôn được 
tiếp diễn. Noãn bào ở pha nhân- chất nhiễm sắc 
có tính ưa kiềm với nguyên sinh chất bắt màu 
tím đậm của Hematocine. Nhân to, nằm giữa 
tế bào, không bắt màu và chiếm tỷ lệ lớn hơn 
so với nguyên sinh chất trong noãn bào (Hình 
2A). Xung quanh tế bào được bao bởi một lớp 
màng mỏng. Đường kính noãn nguyên bào dao 
động từ 12,0 – 34,1µm (n=48).
2. Pha 2: Pha tiền ngoại vi nhân
Các noãn bào có hình tròn và có màu trắng 
trong. Đặc điểm nhận biết tế bào sinh dục cái 
giai đoạn này đó là sự xuất hiện của hạch nhân 
phân bố không theo nguyên tắc với số lượng 
tăng dần và bắt màu thuốc nhuộm Hematocine 
do bản chất cấu tạo bằng protein (Hình 2B). Nhân 
nằm giữa tế bào, tỷ lệ giữa nhân và nguyên 
khoảng 1/2 so do kích thước nguyên sinh chất 
có sự tăng lên. Màu sắc của nhân không còn 
trong suốt mà có sự xuất hiện của các vệt bắt 
màu tím nhạt của Hematocine. Đường kính 
noãn bào dao động từ 21,5 – 97,6µm (n=48).
3. Pha ngoại vi nhân
Noãn bào có hình tròn với kích thước tăng 
lên do sự gia tăng của tế bào chất làm cho kích 
thước nguyên sinh chất tăng lên, do đó thời kỳ 
này trong phát triển noãn bào còn được gọi là 
thời kỳ sinh trưởng nguyên sinh chất. Các tế 
bào kết thúc thời kỳ sinh trưởng chất nguyên 
Hình 1. Hình dạng ngoài cá khoang cổ 
lưng yên ngựa tại vịnh Nha Trang
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 85
sinh có kích thước khá lớn, nên có thể phân 
biệt bằng mắt thường. Hạch nhân tăng lên về 
số lượng và di chuyển ra ngoài tạo một vòng 
quanh màng nhân (ngoại vi nhân) (Hình 2C). 
Đường kính noãn bào dao động từ 61,2 – 
274,2µm (n=48).
4. Pha không bào hóa
Hình dạng ngoài noãn bào thay đổi từ hình 
tròn chuyển thành dạng ovan, có thể nhìn thấy 
các hạt noãn bào với màu trắng trong và trắng 
sữa. Noãn bào bắt màu thuốc nhuộm nhạt dần 
do sự xuất hiện của các không bào như hình 
tròn rỗng xuất hiện bắt đầu ở hai phía theo hình 
ovan và xung quanh nhân (Hình 1D), sau đó 
các hạt không bào tăng lên khắp nguyên sinh 
chất, các không bào này không bắt màu thuốc 
nhuộm Hematocine do chứa các chất có nguồn 
gốc đường (Hình 2E). Ở giai đoạn này, không 
chỉ do sự gia tăng về thể tích chất nguyên sinh, 
mà còn do kết quả của việc tích lũy các chất 
dinh dưỡng. Bởi vậy thời kỳ này trong sự phát 
triển của các noãn bào có thể được gọi là thời 
kỳ sinh trưởng nguyên sinh – dinh dưỡng. 
Màng nhân không còn phân biệt rõ như pha 3, 
hạch nhân tiếp tục di chuyển ra sát ngoài vùng 
tiếp giáp với nguyên sinh chất. Cuối pha không 
bào hóa, kích thước của noãn bào tăng lên rất 
nhiều do sự hình thành vô số hạt không bào 
có kích thước lớn (3-5µm) ở hai phía của hình 
ovan cùng với sự gia tăng nguyên sinh chất 
chia noãn bào thành dạng gần như số 8 (Hình 
1F) do kích thước nhân không tăng lên. Kích 
thước noãn bào (theo chiều dài) dao động từ 
611,6 – 800,3µm (n=48).
5. Pha thể noãn hoàng
Hình dạng ngoài noãn bào thay đổi từ hình 
gần giống số 8 chuyển lại thành dạng ovan. 
Noãn bào nhìn rõ bằng mắt thường và có màu 
vàng cam. Noãn bảo ở pha này được chi thành 
ba giai đoạn: pha thể noãn hoàng thứ nhất, 
thứ hai và thứ ba. Ở pha thể noãn hoàng thứ 
nhất, các hạt noãn hoàng bắt đầu xuất hiện ở 
hai đầu noãn bào thành hai cụm. Phần giữa của 
noãn bào to dần lên do không bào tiếp tục phát 
triển làm hình dạng của noãn bào dần trở về 
dạng ovan với kích thước lớn hơn pha 4, nang 
trứng được hình thành (Hình 2G). Pha thể noãn 
hoàng thứ hai, noãn hoàng tiếp tục được tổng 
hợp và tích lũy dần lấp đầy hai cực của noãn 
bào. Noãn hoàng xuất hiện dày lên chia nhỏ 
các không bào, các không bào tập trung dày 
ở xung quanh nhân (Hình 2H). Pha thể noãn 
hoàng thứ ba, toàn bộ nguyên sinh chất được 
lấp đầy bởi các hạt noãn hoàng bắt màu tím 
đậm của Hematocine do bản chất protein. Kích 
thước các hạt noãng hoàng tăng lên và dính lại 
với nhau thành từng đám. Nang trứng dày lên 
rõ rệt với vành phóng xạ của màng follicule 
xuất hiện rõ ràng. Hạch nhân tiêu biến, nhân là 
một khối đồng nhất bắt màu tím nhạt (Hình 2I). 
Quá trình tích lũy noãn hoàng kết thúc. Kích 
thước noãn bào (theo chiều dài) dao động từ 
896,7 – 1548,1µm (n=48).
6. Pha thành thục
Trứng chín và rụng. Trứng chín là trứng có 
túi mầm tan biến, nhân co lại và di chuyển về 
cực động vật (Hình 2K). Màng nhân tiêu biến 
và càng ở gần cực động vật càng nhỏ dần và tan 
biến khi tiến sát về vùng cực. Trong quá trình 
dịch chuyển nhân, noãn bào có hiện tượng 
phân cực. Trên một cực là phân bố của nhân 
và phần chủ yếu của nguyên sinh chất (cực 
động vật) còn ở cực khác là noãn hoàng (cực 
thực vật). Nang trứng dần tách khỏi noãn bào 
sẵn sàng cho sự rụng trứng khi nang trứng vỡ 
ra và trứng bị đẩy ra ngoài, những vỏ nang đã 
vỡ nằm lại trong buồng trứng (Hình 2L). Kích 
thước noãn bào (theo chiều dài) dao động từ 
946,5,7 – 1682,2µm (n=48).
Noãn bào phát triển có sự gia tăng về kích 
86 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
thước và sự thay đổi về hình dạng. Trong đó, 
ở pha I, kích thước noãn bào tương đối đồng 
đều với đường kính trung bình 18±5µm. Noãn 
bào pha II, III không thay đổi về hình dạng, chỉ 
có sự tăng lên về kích thước đường kính. Tuy 
nhiên, từ pha IV, trứng có sự thay đổi chuyển 
thành dạng hình bầu dục với sự xuất hiện của 
noãn hoàng khiến trứng chuyển sang màu vàng 
nhạt và khi cá chuẩn bị đẻ chuyển sang màu 
cam đậm. Sự xuất hiện của noãn bào ở nhiều 
giai đoạn trong cùng một buồng trứng cho thấy 
đây là loài có noãn sào kiểu không đồng bộ và 
đẻ nhiều lần trong năm. Sự xuất hiện của noãn 
bào ở giai đoạn tích lũy noãn hoàng, thành thục 
và tham gia đẻ trứng cho thấy mùa sinh sản của 
cá kéo dài từ tháng 2 đến tháng 8 hàng năm 
trong tự nhiên, trong điều kiện nuôi nhốt cá đẻ 
quanh năm tập trung từ tháng 2 đến tháng 11.
Hình 2: Mô học các pha phát triển của noãn bào
A. Pha nhân – chất nhiễm sắc; B. Pha tiền ngoại vi nhân; C Pha ngoại vi nhân; D, E, F. 
Pha không bào hóa; G, H, I. Pha thể noãn hoàng; K, L. Pha thành thục
 : noãn bào; : hạch nhân; : không bào; N : nhân; : noãn hoàng; : màng folicule tách ra
Bảng 1. Kích thước của noãn bào qua các giai đoạn phát triển
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 87
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Cá khoang cổ lưng yên ngựa phân bố tại 
vùng biển Nha Trang Khánh Hòa là loài cá đẻ 
nhiều lần trong năm do trong tổ chức mô học tế 
bào luôn có sự tồn tại của các noãn bào ở nhiều 
giai đoạn khác nhau. Trong đó ở giai đoạn phát 
triển tích lũy noãn hoàng, noãn bào chuyển từ 
dạng hình tròn sang dạng hình bầu dục với màu 
sắc chuyển từ trắng sang đậm dần và có màu 
vàng cam đậm khi cá thành thục.
Cần tiến hành thêm các nghiên cứu về đặc 
điểm sinh học trong đó có đặc điểm sinh sản 
nhằm cung cấp thêm các dữ liệu cơ bản làm 
cơ sở cho các nghiên cứu về sinh sản nhân tạo 
cá là một trong những vấn đề quan trọng, giúp 
nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về đối tượng nuôi 
cảnh mới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lộc Hà Lê Thị (2004), Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản cá khoang cổ đỏ (Amphiprion frenatus 
Brevoort, 1856) vùng biển Nha Trang, Tuyển tập Hội thảo Toàn quốc về nghiên cứu và ứng Dụng Khoa 
Học Công Nghệ trong nuôi trồng Thủy sản, NXB KHKT, 571 – 576.
2. Lộc Hà Lê Thị (2005), Nghiên cứu cơ sở sinh học phục vụ cho sinh sản nhân tạo cá khoang cổ (Amphirion 
spp.) vùng biển Khánh Hòa, Luận án Tiến sĩ Ngư Loại Học, Viện Hải dương học Nha Trang.
3. Nho Nguyễn Trọng and Lục Minh Diệp (2003), "Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá chẽm mõm nhọn 
Psammoperca waigiensis Cuvier & Valenciennes, 1828., 2003. Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển 
công nghệ giữa trường Đại Học Thủy Sản và Ban Quản Lý Hợp Phần SUMA, Bộ Thủy Sản.".
4. Trang Trần Thị Lê (2010), Nghiên cứu ảnh hưởng của thời điểm chuyển đổi thức ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ 
sống của ấu trùng cá khoang cổ cam (Amphiprion percula Lacepede, 1802) tại Thái Lan, Luận văn Thạc sỹ, 
Đại học Nha Trang.
Tiếng Anh
5. Murua Hilario and Saborido-Rey Fran (2003), "Female reproductive strategies of marine fi sh species of the 
North Atlantic", Journal of Northwest Atlantic Fishery Science. 33, pp. 23-31.
6. Wallace Robin A. and Selman Kelly (1981), "Cellular and dynamic aspects of oocyte growth in teleosts", 
American Zoologist. 21(2), pp. 325-343.
7. Allen GR (1972), The Anemonefi shes: their Classifi cation and Biology, Editor^Editors, TFH Publications 
Inc., Neptune City, New Jersey Google Scholar.
8. Bon Quentin and H.Moove Richard (2008), Biology of Fishes, Third Edition, Published by Taylor & Francis 
Group, USA&UK. .
9. Dung Lê Hoàng Thị Mỹ and Hùng Phạm Quốc (2015), "Sự phát triển noãn sào trong mùa sinh sản của cá 
chẽm mõm nhọn – Psammoperca waigiensis (Cuvier, 1828) ", Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản 4, pp. 
27-33.
88 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2018
10. King Michael (1995), "Fisheries biology, assessment and management", Fishing New Books, A division of 
Blackwell Science Ltd, 54 University Street, Carlton Victoria 3053, Australia 
11. Nguyễn Hữu Phụng and Nhung Đỗ Thị Như (1995), Danh mục cá biển Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa 
học và kỹ thuật, Hà Nội.
12. Nikolskii G. V. (1963), The ecology of fi shes : G. V. Nikolsky / translated from the Russian by L. Birkett 
Academic Press London, 353.
13. Olivier Katia (2001), "The ornamental fish market", FAO, Rome (Italy). GLOBEFISH Research 
Programme eng.
14. Phạm Quốc Hùng and Dung Lê Hoàng Thị Mỹ (2011), "Nghiên cứu tổ chức học của tinh sào cá chẽm 
mõm nhọn – Psammoperca waigiensis (Cuvier, 1828)", Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản. ISSN 1858 
– 2252(2), pp. 19-27.
15. Pravdin. I. F (Phạm Thị Minh Giang dịch) (1973), Hướng dẫn nghiên cứu cá, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 
Hà Nội.
16. Sakun O.F. và Butskaya N.A. (1968), "Chu kỳ phát triển tuyến sinh dục của cá (Nguyễn Tường Anh dịch). 
Tài liệu lưu hành nội bộ.".
17. Wabnitz Colette (2003), From ocean to aquarium: the global trade in marine ornamental species, UNEP/
Earthprint.
18. Ye Le, Yang Sheng-Yun, Zhu Xiao-Ming, Liu Min, Lin Jing-Yi, and Wu Kai-Chang (2011), "Effects of tem-
perature on survival, development, growth and feeding of larvae of Yellowtail clownfi sh Amphiprion clarkii 
(Pisces: Perciformes)", Acta Ecologica Sinica. 31(5), pp. 241-245.

File đính kèm:

  • pdftap_chi_khoa_hoc_cong_nghe_thuy_san_so_32018.pdf