Tăng trưởng và tỷ lệ sống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể xi măng từ cá bột đến cá hương 27 ngày tuổi
TÓM TẮT
Tăng trưởng và tỷ lệ sống cá tra ương từ bột lên hương 27 ngày trên bể xi măng 15 m2 theo các mật
độ và lượng thức ăn công nghiệp sử dụng khác nhau được đánh giá. Thí nghiệm thực hiện ở hai mật
độ khác nhau 1.335 con/m2 (MĐ1) và 2.000 con/m2 (MĐ2) và trong từng mật độ hai mức thức ăn
công nghiệp được áp dụng (LTA1 và LTA2). Mỗi nghiệm thức được lặp lại ở 5 bể ương và bố trí
hoàn toàn ngẫu nhiên. Lượng thức ăn tự nhiên, quản lý chỉ tiêu thuỷ lý hoá và kiểm tra mầm bệnh
thực hiện giống nhau ở các bể thí nghiệm. Tăng trưởng chiều dài ở ngày ương thứ 7, tăng trưởng
chiều dài, khối lượng và tỷ lệ sống khi kết thúc thí nghiệm ở ngày ương thứ 27 được thu thập. Số
liệu được phân tích ANOVA 2 yếu tố. Kết quả cho thấy 2 yếu tố thí nghiệm ảnh hưởng có ý nghĩa
thống kê lên sự tăng trưởng chiều dài của cá 7 ngày tuổi (ương ứng 12,1 và 12,9 mm so với 11,7
và 11,5 mm) và 27 ngày tuổi (tương ứng 3,67 và 3,81 cm so với 3,41 và 3,28 cm). Ở mật độ ương
MĐ1 và lượng thức ăn công nghiệp LTA2 có sự tăng trưởng về chiều dài của cá tốt nhất đạt 3,81
cm và khối lượng đạt 0,5 g/con. Tỷ lệ sống đạt cao và khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các
nghiệm thức cho cả 2 yếu tố thí nghiệm mật độ và lượng thức ăn công nghiệp, cao nhất ở MĐ1 và
LTA2 (56,19%) và thấp nhất ở MĐ2 và LTA2 (42,99%). Các chỉ tiêu thuỷ lý hoá trong giới hạn cho
phép và sự xuất hiện mầm bệnh ít và thấp hơn ương trong ao. Kết quả về tăng trưởng và tỷ lệ sống
được so sánh với các nghiên cứu trước đó và cho thấy khả thi để có thể thực hiện nghiên cứu hoàn
thiện trên bể cùng quy mô hoặc lớn hơn. Các yếu tố thí nghiệm và giải pháp kỹ thuật khác cần xem
xét cho các nghiên cứu trong tương lai cũng được thảo luận.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tăng trưởng và tỷ lệ sống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương trên bể xi măng từ cá bột đến cá hương 27 ngày tuổi
thí nghiệm này nhưng chỉ cho ăn Artemia đến ngày thứ 4 và ở quy mô bể lớn hơn (15 m2), mở ra khả năng ương cá tiết kiệm chi phí hơn khi mà giá Artemia còn cao. Từ tăng trưởng cao hơn có ý nghĩa thống kê về tăng trưởng theo chiều dài 7 và 27 ngày ương và khối lượng ở 27 ngày ương ở mật độ thấp 1.335 con/m2 (MĐ1) so với mật độ cao hơn 2.000 con/m2 (MĐ2), tăng trưởng chiều dài cao hơn có ý nghĩa thống kê ở mức thức ăn cao LTA2 so với mức thức ăn thấp LTA1 ở mật độ 1.335 con/m2 cho thấy để cải thiện tăng trưởng ở mật độ cá ương cao hơn, chúng ta cần cho lượng thức ăn tự nhiên (Artemia và Moina) hoặc/và lượng thức ăn công nghiệp cao hơn. Kết quả tỷ lệ sống trong nghiên cứu này (42,99-56,19%) cao hơn so với tỷ lệ sống (38,5% cho mật độ 1.500 con/m3 và 20,9% cho mật độ 3.000 con/m3) khi ương thời gian ngắn hơn (20 ngày), cho ăn thức ăn tươi sống (Artemia và Moina) với mật độ cao hơn và thức ăn bột trễ hơn (ngày thứ 9) của Nguyễn Văn Sáng và Nguyễn Thị Đang (2014). Nhóm tác giả này thực hiện thí nghiệm trên bể nhỏ 1,0 m3, cho ăn Artemia với lượng 9 RFL trong 6 ngày và Moina 1 con/ml nước ương và 2 con/ml nước ương tương ứng các ngày ương 2-6 và 7-11. Khi so sánh với nghiên cứu của nhóm Nguyễn Văn Sáng và Nguyễn Thị Đang (2014), chúng tôi thấy có sự khác biệt nữa có thể là nguyên nhân gây ra tỷ lệ sống thấp so với nghiên cứu này là các chỉ tiêu thuỷ hoá NH 3 và NO2 một số ngày vượt ngưỡng. Phạm Thị Hồng (2012) đã thực hiện thí nghiệm trên bể nhỏ 20 lít, mật độ 10 con/L, cho cá ăn ba ngày đầu là ăn luân trùng và cho ăn Moina trong thời gian còn lại với mật độ 3, 5 và 7 cá thể/ml. Tỷ lệ sống ở mật độ thức ăn 5 cá thể/ml (41%) và nghiệm thức 7 cá thể/ml (45%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với ở mật độ thức ăn 3 cá thể/ml là 31%. Tuy nhiên, kỹ thuật nuôi luân trùng nước ngọt sinh khối cần hoàn thiện thêm vì chi phí còn cao. Slembrouck và ctv., (2010) khảo sát chiều rộng miệng của cá ở 2-7 ngày từ 5,5-8,5 mm và miệng mở cao hơn chiều cao thân của cá và dễ dàng bắt thức ăn vào miệng. Như vậy, có thể nhận xét rằng kích cỡ thức ăn như luân trùng, Artemia hay Moina không quá quan trọng đối với cá bột 2-7 ngày tuổi. Nghiên cứu kết hợp luân trùng với Moina trong cho cá ăn 10 ngày đầu khi ương bột lên hương 21 ngày tuổi và sau đó cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệp từ ngày 10-21 trên bể 1 m3 thì tỷ lệ sống của cá đạt 35% khi ương cá với mật độ 6.000 cá/m3 (Trần Văn Hương và ctv., 2018). Tỷ lệ sống này cao hơn tỷ lệ sống ương trong ao đất (22,6-31,8%) tổng kết bởi Nguyễn Văn Sáng và ctv., (2011) và Lê Đức Liêm và ctv., (2017). Qua tổng quan trong phần giới thiệu và thảo luận vừa nêu, cùng với kết quả nghiên cứu này cho thấy chúng ta có thể nâng cao tỷ lệ sống khi ương trong điều kiện có kiểm soát hơn ở hệ thống nuôi từ 20 lít đến 15 m2 với thức ăn khác Bảng 5. Kết quả theo dõi bệnh cá trong quá trình ương nuôi từ cá bột đến ngày 27 Nghiệm thức Số bể (N) Số mẫu bị nhiễm trùng bánh xe (bể) Ngày tuổi bị nhiễm trùng bánh xe (ngày) Tỷ lệ nhiễm (%) Cường độ nhiễm (%) MĐ1 LTA1 5 1 25 80 30 LTA2 5 0 MĐ2 LTA1 5 1 20 40 30 LTA2 5 1 25 10 10 18 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II nhau là luân trùng, Artemia và Moina và kết hợp giữa chúng trong giai đoạn đầu. Một số tác giả cũng đưa ra các điều kiện để nâng cao tỷ lệ sống như tăng mật độ thức ăn (Slembrouck và ctv., 2009); ánh sáng trên bề mặt bể ương ở cường độ 0,1 lux (Mukai, 2011); sục khí bão hoà trên 90% và hàm lượng oxy hoà tan trên 6,4 mg/lít; nhiệt độ ương lý tưởng là 310C (Baras và ctv., 2011). Khi chúng ta áp dụng các giải pháp kỹ thuật như trong nghiên cứu này và như các tác giả vừa nêu thì chắc chắn sẽ tăng phi phí ương nuôi. Câu hỏi đặt ra liệu tỷ lệ sống cao và cá hương sau khi ương có phát triển tốt ở giai đoạn hương lên giống hay không, có mang lại hiệu quả kinh tế thật sự và được người sản xuất chấp nhận hay không. Trong nghiên cứu này, mật độ cao MĐ2 cho tăng trưởng chiều dài ngày ương 7 và 27, khối lượng ngày ương 27 thấp hơn mật độ thấp hơn MĐ1 nhưng tỷ lệ sống khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Người sản xuất có thể lựa chọn ương mật độ cao để có số lượng cá hương nhiều hơn, nhưng liệu tăng trưởng chậm ở giai đoạn cá hương có ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển của cá ở giai đoạn sau cần phải có nghiên cứu tiếp theo. Tăng trưởng bù ở cá tra giống nuôi lên thịt được công bố bởi Rodul Amin và ctv., (2005) và trên cá basa giai đoạn cá hương 2g lên giống (Jiwyam và ctv., 2010), nhưng chưa có nghiên cứu và công bố cho cá tra giai đoạn hương lên giống. Theo Đinh Thị Thuỷ và ctv., (2016) khi thực hiện thí nghiệm trong ao cho thấy không bổ sung Moina từ bên ngoài vào ao thì cho kết quả ương tốt hơn về tỷ lệ sống. Moina và Daphnia được xem là nguồn mang mầm bệnh vào trong hệ thống ương nuôi cần kiểm soát (Ebert, 2005). Hơn nữa, trong điều kiện ương cá có kiểm soát hơn, mật độ cá cao và cần lượng thức ăn tươi sống nhiều thì chúng ta cần nuôi luân trùng và Moina trong điều kiện kiểm soát để sạch bệnh và chi phí thấp là cần thiết để tránh rủi ro và giảm giá thành sản xuất cá hương, giống. Bệnh do ký sinh trùng gây ra là một trong những bệnh phổ biến trong ương cá tra lên hương 30 ngày tuổi trong ao chiếm 71,9% số hộ ương, tỷ lệ nhiễm cao 71,9% và mức độ thiệt hại 29,5% nếu không chữa trị phù hợp (Nguyễn Văn Sáng và ctv., 2011). Trong nghiên cứu này, ở cả 2 mật độ ương đều có xuất hiện với tỷ lệ thấp hơn 3/20 (chiếm 15%) bể nhiễm trùng bánh xe, nên các giải pháp phòng và trị bệnh cũng cần được thực hiện khi ương cá trên bể. Trong thí nghiệm, không phát hiện cá nhiễm các loại ký sinh trùng khác hay có dấu hiệu bệnh nhiễm khuẩn như xuất huyết và gan thận mủ. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận - Tăng trưởng về chiều dài tổng khi cá ương 7 ngày trong nghiên cứu này (11,59-12,51 mm) gần tương đương với kết quả nghiên cứu cho ăn thức ăn Artemia đến 8 ngày tuổi công bố trước đây. - Mật độ ương 1.335 con/m2 cho tăng trưởng theo chiều dài 7 và 22 ngày ương và khối lượng 27 ngày ương cao hơn so với đật độ cao hơn 2.000 con/m2. Mức thức ăn cao LTA2 cho tăng trưởng chiều dài cao hơn mức thức ăn thấp LTA1 ở mật độ 1.335 con/m2. Để cải thiện tăng trưởng ở mật độ cá ương cao hơn 2.000 con/m2, cần cho lượng thức ăn tự nhiên (Artemia và Moina) hoặc/và lượng thức ăn công nghiệp cao hơn. - Tỷ lệ sống đến ngày ương 27 không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức của 2 yếu tố mật độ và lượng thức ăn công nghiệp trong nghiên cứu này. Kết quả tỷ lệ sống ương trên bể trong nghiên cứu này cao hơn các nghiên cứu đã công bố và đạt 42,99-56,19%, mở ra triển vọng hoàn thiện quy trình ở quy mô này và thử nghiệm ở quy mô lớn hơn khi áp dụng thêm giải pháp kỹ thuật đồng bộ khác đã đưa ra trong phần thảo luận. - Ương trên bể có thể dễ dàng quản lý chất lượng nước và có thể cải thiện tỷ lệ nhiễm bệnh. Cá nhiễm ký sinh là trùng bánh xe với tỷ lệ nhiễm thấp 3/20 bể thí nghiệm bị nhiễm (tỷ lệ 15%) so với ương trong ao của các tác giả khác công bố (71,9%). 19TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 5.2. Đề xuất Các nghiên cứu tiếp theo nên tập trung: - Áp dụng các giải pháp tổng hợp như tăng mật độ thức ăn tự nhiên, che tối phù hợp, sục khí phù hợp, nhiệt độ cao và phù hợp. - Sản xuất thức ăn tự nhiên như luân trùng và Moina sạch bệnh và chi phí giảm. - Khả năng tăng trưởng và sức khoẻ của cá hương từ thí nghiệm ương trên bể (trong điều kiện kiểm soát hơn) lên cá giống nhằm đáp ứng yêu cầu của người sản xuất. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Bùi Quang Tề, 2006. Bệnh học thủy sản, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 439 trang. Đinh Thị Thuỷ, Thi Thanh Vinh, Nguyễn Diễm Thư, Nguyễn Thành Nhân, Mã Tú Lan, Nguyễn Thanh Trúc, Đoàn Văn Cường, Nguyễn Hồng Quân, Trần Cường Thịnh, Võ Minh Sang, 2016. Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nâng cao tỷ lệ sống và chất lượng cá tra từ giai đoạn bột lên giống ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo tổng kết Khoa học đề tài nghiên cứu cấp Bộ (2014 - 2016), Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản II, Bộ NN& PTNT, 150 trang. Lê Đức Liêm, Bùi Đức Hồng, Phan Thị Thu, Nguyễn Phương Thảo, Huỳnh Kim Anh, 2018. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ: Kiểm tra chất lượng đàn cá tra bố mẹ chọn giống, Bộ NN&PTNT, 57 trang. Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Thị Đang, 2014. Ảnh hưởng của mật độ cá và lượng thức ăn artemia lên tỷ lệ sống của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ương từ bột đến hương trên bể composite. Tạp chí Nghề Cá Sông Cửu Long, 41-48. Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Hảo, Phạm Đình Khôi, Trịnh Quốc Trọng, Ngô Hồng Ngân, Nguyễn Thế Vương, Nguyễn Thị Đang, Nguyễn Quyết Tâm, Trịnh Quang Sơn, 2012. Chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá tra có chất lượng di truyền cao về tính trạng tăng trưởng cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo khoa học tổng kết dự án, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2, 70 trang. Phạm Thị Hồng, 2012. Khảo sát thành phần thức ăn tự nhiên trong ao ương và ống tiêu hoá cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đoạn từ bột lên hương. Luận văn tốt nghiệp cao học, ngành Nuôi trồng Thuỷ sản, Khoa Thuỷ sản, Đại Học Cần Thơ. Trần Văn Hương, Lê Văn Hậu, Vũ Thị Thanh Hương, Nguyễn Quốc Bình, 2018. Báo cáo nghiệm thu đề tài hoàn thiện quy trình ương cá tra giống sạch bệnh quy mô sản xuất. Sở NN&PTNT Tp. Hồ Chí Minh, 33 trang. Tài liệu tiếng Anh Baras, E., Raynaud, T., Slembrouck, J., Caruso, D., Cochet, C., Legendre, M., 2011. Interactions between temperature and size on the growth, size heterogeneity, mortality and cannibalism in cultured larvae and juveniles of the Asian catfish, Pangasianodon hypophthalmus (Sauvage). Aquaculture Research 42, p. 260-276. Ebert D., 2005. Ecology, Epidemiology, and Evolution of Parasitism in Daphnia [Internet]. Bethesda (MD): National Library of Medicine (US), National Center for Biotechnology Information. Available from: nlm.nih.gov/entrez/query.fcgi?db=Books. Jiwyam, W., 2010. Growth and compensatory growth of juvenile Pangasius bocourti Sauvage,1880 relative to ration. Aquaculture 306, 393-397. Margolis, 1967. The use of ecological terms in parasitology, pp. 131-133. Mukai, Y., 2011. Remarkably high survival rates under dim light conditions in sutchi catfish Pangasianodon hypophthalmus larvae. Fisheries Science 77: 107-111. Rodul Amin, A.K.M, Bapary, M.A.J., Islam, M.S., Shahjahan, M., Hossain, M.A.R., 2005. The impacts of compensatory growth on food intake, growth rate and efficiency of feed utilization in Thai pangas (Pangasius hypophthalmus). Pakistan Journal of Biological Science 8, 766- 770. Slembrouck, J., Baras, E., Subagja, J., Hung, L.T., Legendre, 2009. Survival, growth and food conversion of cultured larvae of Pangasianodon hypophthalmus, depending on feeding level, prey density and fish density, Aquaculture 294: 52-59. Slembrouck, J., Baras, E.C., Cochet, D., Caruso, M., Lgendre, 2010. Morphological factors behind the early mortality of culture larvae of the Asian catfish, Pangasianodon hypophthalmus, Aquaculture 298: 211-219. 20 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II GROWTH AND SURVIVAL RATE OF STRIPED CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus) NURSED IN CEMENT TANKS FROM LARVAE TO 27-DAY FRY Nguyen Van Sang1*, Tran Huu Phuc2, Ha Thi Ngoc Nga2, Nguyen Thị Hong Nhung2, Nguyen Huynh Duy2 , Nguyen The Vuong2, Dang Van Truong2 ABSTRACT This study determines growth and survival rate for striped catfish from larvae to 27-day-old fry in 15 m3 cement tanks. Two levels of stocking density, 1.335 ind/m2 (MD1) and 2.000 ind/m2 (MD2) and two commercial feeding levels (LTA1 and LTA2) were randomly conducted with 5 replicates. The type and feeding levels of zooplankton, water quality management and pathogen testing were performed similarly in all experimental tanks. Total length at the 7th day of nursing, total length, weight and survival rate at the end of the study (at 27th day) were measured. The data were analyzed by two-way ANOVA. Stocking densities and feeding levels influenced significantly the length of the 7-day-old fry (12,1 and 12,9 mm compared with 11,7 and 11,5 mm, respectively) and 27-day- old fry (3,67 and 3,81 cm compared with 3,41 and 3,28 cm, respectively). The larvae stocking density of MD1 and the feeding level of LTA2 resulted in the highest growth in terms of length and weigth with 3,81 cm and 0,5 g/ind, correspondingly. Survival rate was high and the difference was not statistically significant between experiments of both the larvae stocking densities and the feeding levels. Survival rate was highest at MD1 and LTA2 (56,19%) and lowest at MD2 and LTA2 (42,99%). The occurrence of pathogens was lower than nursing in earthen pond. Results of growth and survival rate were compared with previous studies and were found that it is feasible to perform a complete study in the cement tanks of the same or larger size. Other experimental parameters and technical solutions were also considered and discussed for future research. Keywords: body length, body weight, cement tank, striped catfish fry, survival rate. Người phản biện: TS. Đinh Thị Thủy Ngày nhận bài: 20/12/2018 Ngày thông qua phản biện: 26/12/2018 Ngày duyệt đăng: 31/12/2018 1 Research Institute for Aquaculture No. 2 2 National Breeding Centre for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No. 2 * Email: nguyenvansang1973@yahoo.com; sangnv.ria2@mard.gov.vn
File đính kèm:
- tang_truong_va_ty_le_song_ca_tra_pangasianodon_hypophthalmus.pdf