So sánh tăng trưởng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) chọn giống với tôm tự nhiên trong điều kiện ao nuôi thí nghiệm
TÓM TẮT
Thí nghiệm đánh giá tăng trưởng của nhóm tôm chọn giống và tôm tự nhiên được thực hiện trong
một ao 2.000 m2 ở mật độ nuôi 5,3 con/m2. Từ hai nhóm tôm ban đầu là chọn giống và tự nhiên, đã
tiến hành ghép phối để tạo ra 4 nhóm (theo thứ tự tôm mẹ × tôm bố) là chọn giống × chọn giống
(CG×CG), chọn giống × tự nhiên (CG×TN), tự nhiên × chọn giống (TN×CG) và tự nhiên × tự
nhiên (TN×TN). Sau thời gian nuôi 97–111 ngày (từ khi đánh dấu (15/6/2015 – 23/6/2015) đến khi
thu hoạch (29/9/2015 – 6/10/2015), giữa các nhóm tôm có sự khác biệt về khối lượng thu hoạch
(P<0,001) và="" tỉ="" lệ="" sống="" (36,1="" –="" 48,5%).="" nhóm="" tôm="" cg×cg="" có="" khối="" lượng="" thu="" hoạch="" trung="">0,001)>
25,3 g, lớn hơn so với ba nhóm còn lại (14,7 – 19,4 g). Tương tự, nhóm tôm CG×CG có tỉ lệ sống là
48,5% so với 36,1 – 44,0% của ba nhóm tôm còn lại. Nhóm tôm TN×TN có khối lượng thu hoạch
trung bình (15,5 g) và tỉ lệ sống (36,1%) thấp nhất. Hai nhóm tôm CG×TN và TN×CG có khối
lượng thu hoạch (19,4 và 14,7 g) và tỉ lệ sống (39,9 và 40,0%) nằm giữa hai nhóm ghép phối nội
nhóm và thấp hơn so với nhóm CG×CG.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh tăng trưởng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) chọn giống với tôm tự nhiên trong điều kiện ao nuôi thí nghiệm
Thực hiện nghiên cứu này, nhóm tôm chọn giống (chọn giống) có kích cỡ 32 – 62 g/con, được lựa chọn từ thế hệ chọn lọc G 6 . Nhóm tôm tự nhiên (tự nhiên) có kích cỡ 30 – 60 g/ con, được thu bằng cách đóng đáy trên sông Cổ Chiên, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, vào tháng 2/2015. 2.2. Ghép phối Từ hai nhóm tôm chọn giống và tự nhiên, thực hiện ghép phối để tạo ra 4 nhóm ghép phối (chọn giống × chọn giống, ký hiệu CG×CG; chọn giống × tự nhiên, ký hiệu CG×TN; tự nhiên × chọn giống, ký hiệu TN×CG và tự nhiên × tự nhiên, ký hiệu TN×TN) trong thời gian 30 ngày (8/3/2015 đến 7/4/2015). 2.3. Ương ấu trùng lên hậu ấu trùng Tôm cái ôm trứng màu nâu nhạt được chuyển vào bể chứa 1m3 trong nhà. Sau khi trứng nở, ấu trùng được chuyển sang các xô nhựa 70 lít để ương riêng rẽ theo từng gia đình với mật độ 30 ấu trùng/lít. Thời gian ấu trùng chuyển hoàn toàn thành hậu ấu trùng dao động từ 20 – 30 ngày. 2.4. Ương hậu ấu trùng đến kích cỡ đánh dấu Hậu ấu trùng được chuyển sang ương riêng rẽ theo từng gia đình trong các bể composite 1 m3, mật độ thả 1.000 tôm/bể, thời gian ương 2 – 3 tuần. Sau đó, tôm giống được chuyển xuống giai (1,6 × 2,5 × 1,5 m) để ương đến kích cỡ đánh dấu (≥ 2 g) được bằng phẩm màu huỳnh quang (Visible Implant Elastomer, VIE) trong thời gian từ 60 – 75 ngày theo quy trình chuẩn của nhà sản xuất (Northwest Marine, Mỹ). 2.5. Nuôi tĕng trưởng trong ao Số lượng tôm thả nuôi tĕng trưởng của từng nhóm được trình bày trong Bảng 1. Tôm được thả nuôi trong một ao đất 2.000 m2, độ sâu nước 1,2 – 1,4 m. Tổng số lượng tôm nuôi là 10.507 con, tương đương mật độ 5,3 con/m2. Cho tôm ĕn thức ĕn viên (hàm lượng đạm thô 35%) với các kích cỡ phù hợp, khẩu phần cho ĕn từ 3 – 5% khối lượng thân. Thay nước 2 lần/tháng, mỗi lần thay liên tục trong 3 – 4 ngày với tổng lượng nước thay là 200% thể tích nước ao nuôi. 5TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Trong quá trình nuôi, sử dụng chế phẩm vi sinh (Zuca, Long Sinh Ltd) mỗi tháng 2 lần sau khi đã thay nước hoàn toàn. Ao được bố trí một hệ thống quạt nước 4 cánh, công suất máy 2 mã lực, thời gian chạy quạt từ 18 giờ đến 6 giờ sáng hôm sau. Bảng 1. Số lượng tôm giống thả nuôi của 4 nhóm. Nhóm tôm (♀ × ♂) Số lượng thả (con) CG×CG 3.678 CG×TN 1.279 TN×CG 3.050 TN×TN 2.499 2.6. Thu thập và xử lý số liệu Tại thời điểm thu hoạch ghi nhận khối lượng thân của tôm bằng cân điện tử chính xác đến 0,1 g. Ngoài ra, ghi nhận các chỉ tiêu khác như giới tính, tuổi và hình thái tôm. Đối với tôm cái, có 3 loại hình thái là tôm ôm trứng bụng, có buồng trứng ở giáp đầu ngực, và không có trứng (ở bụng hoặc ở giáp đầu ngực). Tôm đực có 5 loại hình thái là càng xanh, càng cam, tôm già (còn gọi là ‘càng sào’), tôm gãy càng và tôm đực nhỏ. Số liệu được quản lý và kiểm tra bằng phần mềm Microsoft Excel® 2010, và được phân tích bằng phần mềm R phiên bản 3.2.4 (R Core Team, 2015). Trong nghiên cứu này, vì ảnh hưởng của ‘giới tính’ là không thể tách rời (confounding) với ảnh hưởng của ‘hình thái’, do mỗi giới tính có những loại hình thái riêng biệt không giống nhau (tôm cái có 3 loại hình thái và tôm đực có 5 loại), nên cuối cùng ảnh hưởng ‘hình thái’ được chọn sử dụng trong mô hình toán. Đối với khối lượng tôm khi thu hoạch, ảnh hưởng của các loại hình thái (3 cho tôm cái và 5 loại hình cho tôm đực), bốn nhóm tôm (CG×CG, CG×TN, TN×CG và TN×TN) và tuổi tôm (tính từ khi nở đến khi thu hoạch) được đánh giá bằng phương trình tuyến tính Khối lượngij = µ + hình tháii + nhómj + β × tuổiij + eij trong đó khối lượngij là khối lượng của cá thể tôm ở nhóm j khi thu hoạch, µ là trung bình khối lượng thu hoạch của quần thể, hình tháii là ảnh hưởng các loại hình thái (3 cho tôm cái và 5 loại hình cho tôm đực), nhómj là ảnh hưởng của 4 nhóm tôm (CG×CG, CG×TN, TN×CG và TN×TN), β là hệ số hồi quy của hiệp biến (covariate) tuổiij (tính từ ngày ấu trùng nở đến khi thu hoạch tôm), và e ij là số dư. Ảnh hưởng của các nhóm tôm được xác định bằng Type III Sum of Square. Nếu ảnh hưởng này có ý nghĩa thống kê (P<0,05) thì sự khác biệt giữa từng nhóm được thực hiện bằng cách so sánh cặp, sử dụng package ‘multcomp’ (Hothorn và ctv., 2008) với phương pháp hiệu chỉnh Tukey ở mức độ tin cậy 95%. Trung bình bình phương tối thiểu (Least Square Mean, LSM), được định nghĩa là trung bình nhóm sau khi đã hiệu chỉnh cho các ảnh hưởng khác trong mô hình (ở đây là hình thái và tuổi tôm), được dùng để so sánh khối lượng thu hoạch của 4 nhóm tôm, sử dụng package ‘lsmeans’ (Lenth, 2016). III. KẾT QUẢ 3.1. Thống kê mô tả Qua thời gian nuôi từ 97 – 111 ngày trong ao với mật độ nuôi 5,3 tôm/m2 (khối lượng tôm thả ban đầu 2,87 – 4,33 g) cho thấy có sự khác biệt về tĕng trưởng khi thu hoạch. Khối lượng trung bình của các nhóm tôm dao động từ 14,7 – 25,3 g (hệ số biến thiên CV70,0 – 77,5%), tĕng trưởng tốt nhất là nhóm CG×CG (25,3 ± 17,7 g) và kém nhất là nhóm TN×CG (14,7 ± 11,4 g). Nhóm TN×TN (15,5 g) có tĕng trưởng kém hơn hẳn nhóm tôm CG×CG (25,3 g) mặc dù có khối lượng thả lớn hơn (4,33 g so với 3,66 g của nhóm CG×CG) (Bảng 2). 6 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 3. Tỉ lệ hình kiểu hình (%) của các nhóm tôm theo giới tính. Giới tính Tôm cái Tôm đực Nhóm (♀ × ♂) Bụng Không Đầu Tổng tôm cái Cam Không Nhỏ Già Xanh Tổng tôm đực CG×CG 40,3 10,8 16,9 68,1 2,4 3,3 11,4 3,5 11,3 31,9 TN×TN 39,0 7,1 18,8 64,8 1,0 0,4 22,6 4,3 6,8 35,2 TN×CG 37,2 12,1 17,1 66,4 0,8 1,6 22,2 2,5 6,4 33,6 CG×TN 40,0 8,4 17,6 66,0 1,2 1,8 21,5 3,2 6,2 34,0 Trung bình 39,2 10,8 17,1 67,2 1,5 2,0 17,6 3,3 8,4 32,8 Bụng = tôm cái ôm trứng, Không = tôm cái không ôm trứng và không quan sát thấy buồng trứng (giai đoạn III−IV), cam = tôm đực càng cam, xanh = tôm đực càng xanh, già =tôm đực càng xanh già(tôm càng sào), nhỏ = tôm đực chưa phát triển đôi càng trước. Bảng 2. Ngày nuôi, số lượng khi thu hoạch, khối lượng (khi thả nuôi và khi thu hoạch) và tỉ lệ sống khi thu hoạch của các nhóm tôm Nhóm (♀ × ♂) Số lượng Ngày nuôi Khối lượng thả nuôi (g) Khối lượng thu hoạch (g) CV (%) Tỉ lệ sống (%) CG×CG 1.776 97–111 3,66 ± 0,88 25,3 ± 17,7 70,0 48,3 TN×TN 901 97−110 4,33 ± 1,39 15,5 ± 11,5 74,0 36,1 TN×CG 1.339 97−110 3,39 ± 0,88 14,7 ± 11,4 77,5 43,9 CG×TN 562 97−111 2,87 ± 0,96 19,4 ± 14,7 75,8 44,0 CV = hệ số biến thiên của khối lượng thu hoạch. Nhóm ghép phối nội nhóm (CG×CG) có tỉ lệ sống cao nhất (48,3%), trong khi nhóm ghép phối nội nhóm tự nhiên (TN×TN) có tỉ lệ sống thấp nhất (36,1%). Hai nhóm ghép phối ngoại nhóm giữa tôm chọn giống và tôm tự nhiên có tỉ lệ sống tương đương (44,0 và 43,9%) và nằm ở khoảng giữa của hai phép ghép phối nội nhóm (Bảng 2). Phân tích kiểu hình tôm nuôi theo 4 nhóm thì tỉ lệ cái chiếm ưu thế (64,8 – 68,1%), không có sự khác biệt lớn giữa các nhóm tôm, trong đó nhóm tôm cái ôm trứng (bụng) chiếm ưu thế (37,2 – 40,3%). Tỉ lệ tôm đực chỉ chiếm 31,9 – 35,2%, trong đó tỉ lệ tôm đực thấp nhất ở nhóm CG×CG (31,9%) và cao nhất ở nhóm tôm TN×TN (35,2%). Tuy nhiên, nếu xét về các hình thái tôm đực thì nhóm tôm CG×CG có tỉ lệ đực nhỏ thấp nhất (11,4%) và chỉ bằng một nửa của các nhóm tôm khác (21,5 – 22,6%) (Bảng 3), đây là nhóm tôm ít có giá trị thương phẩm và sinh sản. Thành phần đực có giá trị thương phẩm (cam và xanh) của nhóm tôm CG×CG (13,7%) cao hơn hẳn so với các nhóm khác (7,2 – 7,8%). 3.2. Tĕng trưởng của các nhóm tôm Bảng 4. Trung bình bình phương tối thiểu của 4 nhóm tôm (đường chéo, in đậm) và sự khác biệt về khối lượng giữa 4 nhóm tôm (ngoài đường chéo). Nhóm (♀ × ♂) CG×CG TN×TN TN×CG CG×TN CG×CG 32,1 *** *** *** TN×TN 25,6 0,87 *** TN×CG 26,4 *** CG×TN 29,2 *** = P< 0,001 7TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II tôm tự nhiên với tôm từ một chương trình chọn giống khi nuôi tĕng trưởng. Nhóm TN×TN trong nghiên cứu này thấp hơn hẳn nhóm CG×CG (khối lượng 25,6 g so với 32,1 g, tỉ lệ sống 36,1% so với 48,3%). Các nhóm lai giữa tôm chọn giống và tự nhiên cũng cho kết quả tĕng trưởng cao hơn nhóm TN×TN, điều này cho thấy nhóm chọn giống được chọn lọc qua 6 thế hệ đã có tĕng trưởng được cải thiện hơn. Một điều đáng lưu ý là nhóm ghép phối giữa tôm cái chọn giống (CG×TN) có tĕng trưởng cao hơn có ý nghĩa (P<0,0001) so với nhóm tôm đực chọn giống (TN×CG). Kết quả này tương đồng với các kết quả công bố trước đây của các chương trình chọn giống tôm càng xanh ở Việt Nam và Trung Quốc, theo đó hệ số di truyền của tôm cái (0,14 – 0,47) cao hơn của tôm đực (0,04 – 0,08) (Luan và ctv., 2012; Nguyễn Trung Ký và ctv., 2014). Như vậy, có thể nhận định rằng trong quá trình sản xuất giống thì việc chọn nguồn tôm cái có tính chất quyết định hơn là tôm đực. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT So sánh tĕng trưởng của nhóm tôm chọn giống và tôm tự nhiên trong điều kiện đồng nhất việc nuôi vỗ, sinh sản, lưu giữ hậu ấu trùng và nuôi chung trong ao cho thấy ưu thế của nhóm tôm chọn giống so với nhóm tôm tự nhiên và các nhóm lai về tĕng trưởng. Ngoài ra, tỉ lệ sống và cấu trúc quần đàn của nhóm tôm chọn giống có ưu thế cho giá trị nuôi thương phẩm tốt hơn các nhóm còn lại. Kết quả phân tích ảnh hưởng của các biến nhóm theo mô hình đã xét cho thấy biến ‘nhóm’, ‘hình thái’ và ‘tuổi’ rất có ảnh hưởng đến khối lượng thu hoạch (P<0,001, số liệu không trình bày trong báo cáo). Theo đó, so sánh các cặp giữa các nhóm tôm nuôi cho thấy tĕng trưởng tôm CG×CG là khác biệt rất có ý nghĩa thống kê với các nhóm tôm còn lại (P<0,001) và giữa các nhóm tôm với nhau, ngoại trừ giữa nhóm TN×TN và TN×CG (P=0,87) (Bảng 4). IV. THẢO LUẬN Đối với nuôi thủy sản nói chung thì khối lượng và tỉ lệ sống là các thông số rất quan trọng quyết định đến hiệu quả của vụ nuôi. Đối với tôm càng xanh, xét theo giới tính thì tôm đực luôn có tĕng trưởng nhanh hơn tôm cái (Luan và ctv., 2012; Nguyễn Minh Thành và ctv., 2009; Trần Ngọc Hải và ctv., 2014). Tôm đực có giá trị kinh tế cao hơn tôm cái, đặc biệt là tôm đực càng cam và càng xanh. Do đặc tính loài mà trong ao nuôi luôn xuất hiện nhiều kiểu hình tôm đực (Ra’Anan và Sagi, 1985; Sagi và Ra’anan, 1988). Trong nghiên cứu này, nhóm tôm CG×CG có những đặc tính tốt hơn 3 nhóm tôm còn lại cả về tĕng trưởng và tỉ lệ sống. Ngoài ra, tỉ lệ tôm đực có càng cam và càng xanh có giá trị cũng cao hơn hẳn (Bảng 2 và 3). Điều này cho phép nhận định tôm chọn giống có thể mang lại hiệu quả kinh tế tốt hơn khi nuôi thương phẩm. Đây là nghiên cứu đầu tiên nhằm so sánh 8 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Trần Ngọc Hải, Trần Minh Nhứt, Châu Tài Tảo, 2014. Đánh giá sự tĕng trưởng và sinh sản của một số nguồn tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) ở các tỉnh phía Nam. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề: Thủy sản (2014): 101-107. Nguyễn Trung Ký, Nguyễn Thanh Vũ, Trịnh Quốc Trọng, 2014. Một số kết quả từ chương trình chọn giống tôm càng xanh thế hệ thứ 5. Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long. 04/2014, 3-14. Tài liệu tiếng Anh Dinh Hung, Vu, N.T., Nguyen, N.H., Ponzoni, R.W., Hurwood, D.A., Mather, P.B., 2013. Genetic response to combined family selection for improved mean harvest weight in giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii) in Vietnam. Aquaculture. 412, 70- 73. FAO, 2016. FishStatJ, a tool for fishery statistics analysis. Release: 2.12.5 by Thomas Berger, Fabrizio Sibeni and Francesco Calderini. Lenth, R.V., 2016. Least-Squares Means: The R Package lsmeans. Journal of Statistical Software, 69(1), 1-33.<doi:10.18637/jss. v069.i01>. Luan, S., Yang, G., Wang, J., Luo, K., Zhang, Y., Gao, Q., Hu, H., Kong, J., 2012. Genetic parameters and response to selection for harvest body weight of the giant freshwater prawn Macrobrachium rosenbergii. Aquaculture. 362, 88-96. Nguyen Minh Thanh, Ponzoni, R.W., Nguyen, N.H., Vu, N.T., Barnes, A., Mather, P.B., 2009. Evaluation of growth performance in a diallel cross of three strains of giant freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii) in Vietnam. Aquaculture. 287, 75-83. R Core Team, 2015. R: A Language and Environment for Statistical Computing. Vienna, Austria: R Foundation for Statistical Computing; 2014. R Foundation for Statistical Computing. ISBN 3-900051-07-0. http:// www.R-project.org. Ra’Anan, Z., Sagi, A., 1985. Alternative mating strategies in male morphotypes of the freshwater prawn Macrobrachium rosenbergii (De Man). The Biological Bulletin. 169, 592- 601. Sagi, A., Ra’anan, Z., 1988. Morphotypic differentiation of males of the fresh-water prawn Macrobrachium rosenbergii: changes in the midgut glands and the reproductive system. Journal of Crustacean Biology. 8, 43-47. 9TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II GROWTH COMPARISON OF SELECTED AND WILD GIANT FRESHWATER PRAWN (Macrobrachium rosenbergii) Nguyen Thanh Vu1*, Trinh Quoc Trong1, Nguyen Trung Ky1, Huynh Thi Bich Lien1, Nguyen Thi Kieu Nga1, Nguyen Van Hiep1 ABSTRACT Growth perfomance of selected and wild giant freshwater prawn (Macrobrachiumrosenbergii) was conducted in a 2,000 m2-pond at a density of 5,3 prawn/m2. Four different groups were produced from a full-diallel cross between selected prawn from a selective breeding program (denoted as CG) and wildprawn (TN) recruited in Tien river in the Mekong Delta of Vietnam. The groups were (in order of dam×sire) CG×CG, CG×TN, TN×CG, and TN×TN. After 97 – 111 days of grow-out from tagging until harvest, harvest weight was highly significant different between 4 groups (P<0.0001), and survival rate (36.1-48.5%). Mean harvest weight of CG×CG group was 25.3 g, compared to 14,7 – 19,4g of the remaining three groups. Similarly, survival rate at harvest of CG×CG group was 48.5%, compared to 36.1 – 44.0% of the other groups. Offspring of wild prawns, that is, TN×TN group, had smallest harvest weight (15.5 g) and lowest survival rate (36.1%). Two cross-bred groups, CG×TN and TN×CG, had intermediate harvest weight (19.4 and 14.7 g, respectively) and survival (39,9 and 40,0%, respectively) compare to two pure-bred groups (CG×CG and TN×TN), most noticeably significantly lower (P<0.0001) than CG×CG group. Keywords: giant freshwater prawn, selected prawn, wild prawn, growth. Người phản biện: TS. Dương Thúy Yên Ngày nhận bài: 26/7/2016 Ngày thông qua phản biện: 03/8/2016 Ngày duyệt đĕng: 05/9/2016 1 National Breeding Centre for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No.2. *Email: nguyenthanhvu190782@gmail.com
File đính kèm:
- so_sanh_tang_truong_tom_cang_xanh_macrobrachium_rosenbergii.pdf