So sánh hiệu quả các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế việc nuôi tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) giữa mô
hình tôm – lúa (T – L) và chuyên tôm (CT), và góp phần phục vụ kế hoạch tái cơ cấu ngành thủy sản
của tỉnh Sóc Trăng. Nghiên cứu này được thực hiện thông qua việc phỏng vấn trực tiếp 64 hộ canh
tác theo T – L và 62 hộ canh tác theo CT từ tháng 12/2014 đến tháng 01/2015 tại huyện Mỹ Xuyên,
tỉnh Sóc Trăng. Kết quả cho thấy diện tích trang trại không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai mô
hình, với diện tích là 1,5 ha/hộ. Mật độ thả nuôi của CT cao hơn T – L lần lượt là 43 PL/m2 và 21
PL/m2 (p<0,05). năng="" suất="" của="" ct="" là="" 3,13="" tấn/ha/vụ="" và="" t="" –="" l="" là="" 1,32="" tấn/ha/vụ.="" chi="" phí="" đầu="" tư="">0,05).>
cao hơn 2,28 lần so với T – L nên CT sẽ chịu nhiều rủi ro hơn khi rảy ra sự cố trong vụ nuôi so với
T – L. Đối với mô hình T – L lợi nhuận từ trồng lúa chiếm 10% tổng thu và có vai trò quan trọng
trong việc đóng góp thu nhập và lương thực cho nông hộ. Để phát triển bền vững mô hình T – L,
chính quyền địa phương nên đầu tư cải tiến mô hình này, đầu tư nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa
và cải thiện chính sách tín dụng hỗ trợ cho sản xuất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh hiệu quả các mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng
ới đối tượng tôm sú đạt năng suất là 1,36 tấn/ha/vụ. Như vậy, đối với T – L dù nuôi tôm sú hay tôm TCT thì năng suất tôm thu hoạch không có sự chênh lệch có ý nghĩa. Bảng 3. Một số thông số kỹ thuật nuôi tôm năm 2014 Chỉ tiêu Chuyên tôm (n=62) Tôm - lúa (n=64) Tổng thể (n=126) Số vụ nuôi tôm sú trong năm (vụ) 1,03±0,16 1,14±0,40 1,09±0,33 Số vụ nuôi tôm thẻ trong năm (vụ) 2,15±0,74 1,54±0,51 1,91±0,72 Mật độ thả (PL/m2) 43,11±25,42a 21,19±13,93b 32,82±23,47 Hệ số FCR 1,23±0,29a 1,22±0,28a 1,23±0,28 Năng suất tôm nuôi (tấn/ha) 3,13±2,44a 1,32±1,04b 2,27±2,11 (Nguồn: Kết quả phỏng vấn tại huyện Mỹ Xuyên, 2014; Các chỉ số so sánh nếu cùng chữ cái trong cùng một dòng thì không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p>0,05); các chỉ số so sánh nếu khác chữ cái thì có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05) 3.4. Hạch toán kinh tế sản xuất Chi phí sản xuất Mô hình CT cho tôm TCT có mức đầu tư 249 triệu đồng/ha cao hơn 2,28 lần so với mô hình T – L (109 triệu đồng/ha). Chi phí đầu tư cho T – L thấp, giúp cho việc tái đầu tư sản xuất cho vụ sau cũng dễ dàng hơn CT. Chi phí sản xuất bao gồm: chi phí cải tạo ao, chi phí vôi, chi phí thuốc, chi phí thức ăn, con giống, khấu hao tài sản cố định. Trong đó chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm khoảng 50% tổng chi phí sản xuất của hộ (Hình 3). Ngoài ra, chi phí con giống và chi phí thuốc, hóa chất cũng chiếm tỷ lệ khá cao, tỷ lệ lần lượt là 18% và 13%. Các chi phí còn lại chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng chí phí sản xuất của nông hộ. 81TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hình 3. Phân bố cơ cấu chi phí đầu tư cho 1ha nuôi tôm trong năm 2014 Doanh thu và lợi nhuận Mô hình CT có lợi nhuận trung bình 97 triệu đồng/ha/vụ cao hơn 77 triệu đồng/ha/vụ so với mô hình T – L (20 triệu đồng/ha/vụ). Tuy nhiên, theo Bảng 4 thì mô hình CT có mức chi phí đầu tư cao hơn 2,28 lần và số tiền lỗ cũng nhiều hơn mô hình T – L. Điều này có nghĩa rằng mô hình CT sẽ chịu nhiều rủi ro hơn so với T – L. Bảng 4. Hiệu quả nuôi tôm tính cho 1ha mặt nước trong năm 2014 Chỉ tiêu Chuyên tôm (n=62) Tôm - lúa (n=64) Tổng thể (n=126) I. Nhóm nuôi tôm bị lỗ 21 26 47 Số hộ liên quan (hộ) Tổng thu (triệu đồng/ha/vụ) 141,17±131,15a 64,57±81,09b 98,79±115,51 Tổng chi (triệu đồng/ha/vụ) 225,99±140,31a 92,14±90,75b 151,94±132,51 Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) -84,82±69,42a -27,57±32,29b -53,15±59,07 Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC) -0,49±0,35a -0,30±0,35a -0,36±0,35 II. Nhóm nuôi tôm có lời 41 29 70 Số hộ liên quan (hộ) Tổng thu (triệu đồng/ha/vụ) 453,19±372,09a 188,73±137,78b 343,63±324,31 Tổng chi (triệu đồng/ha/vụ) 246,51±168,64a 125,80±72,32b 196,50±148,98 Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 206,68±226,62a 62,93±80,10b 147,13±193,55 Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC) 0,83±0,49a 0,50±0,37b 0,75±0,48 III. Tính chung cho nhóm I, II 62 55 117 Số hộ liên quan (hộ) Tổng thu (triệu đồng/ha/vụ) 347,50±344,05a 130,03±128,95b 245,28±288,87 Tổng chi (triệu đồng/ha/vụ) 249,72±158,75a 109,89±82,54b 178,60±143,69 Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 97,78±233,66a 20,14±76,74b 66,68±182,73 Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC) 0,39±0,76a 0,18±0,56b 0,37±0,69 (Nguồn: Kết quả phỏng vấn tại huyện Mỹ Xuyên, 2014; Các chỉ số so sánh nếu cùng chữ cái trong cùng một dòng thì không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p>0,05); các chỉ số so sánh nếu khác chữ cái thì có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p<0,05). 82 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Trong nhóm hộ canh tác có lãi, cho thấy các hộ dân đó có chi phí đầu tư cao hơn nhóm hộ bị lỗ. Trong Bảng 4, không có trình bày nhóm hộ hòa vốn vì người nuôi có lời ít (dưới 10 triệu đồng) thì thường họ xem là hòa vốn. Trong tổng số mẫu T – L được phỏng vấn, thì chỉ có 55 hộ có thông tin đầy đủ về doanh thu và chi phí. T – L có mức độ thâm canh thấp hơn và nguồn thu nhập đa dạng hơn, nên T – L có thể vượt qua rủi ro do dịch bệnh tôm so với CT. Việc có thêm thu nhập từ các nguồn thu khác, khi vụ tôm thất bại sẽ cho phép người dân mô hình T – L quay lại nuôi tôm ở vụ kế tiếp, trong khi những hộ CT khi gặp rủi ro về dịch bệnh tôm thì sẽ rất khó để tái đầu tư sản xuất. 3.5. Thông tin về trồng lúa của nông hộ Lượng giống lúa Lượng giống trung bình của các hộ dân canh tác, theo mô hình tôm lúa là 120 kg/ha/ vụ. Số lượng này phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật của trồng lúa, không có sự khác biệt so với những vùng sản xuất lúa chuyên canh. Các giống lúa thường được nông dân sử dụng thường có tính chịu mặn và có năng suất khá cao như: ST5, OM6976, Một bụi đỏ, Lượng phân bón Lượng phân bón trung bình ở mức 301 kg/ ha, thấp hơn 33% so với lượng phân bón vùng chuyên lúa. Như vậy, từ việc tái sử dụng bùn đáy vụ nuôi tôm, đã góp phần giảm chí phí phân bón cho sản xuất và giảm thiểu nguồn gây ô nhiễm môi trường (RIA2, 2009). Việc sử dụng ít nguyên vật liệu cho sản xuất (vụ tôm, vụ lúa) đã tác động đến quá trình phát thải khí nhà kính của mô hình T – L, cũng được đánh giá là ít hơn so với CT (Anh et al., 2010; Phan et al., 2013). Luân canh trồng lúa sau vụ tôm, còn giúp tăng hiệu quả cho việc cải tạo đất và cắt nguồn dịch bệnh trên tôm cho vụ nuôi kế tiếp và vì vậy T – L được nhận định là mô hình có tính bền vững cao (FAO, 2013). Năng suất Năng suất thu hoạch đạt khá cao khoảng 5,50 tấn/ha/vụ, năng suất phụ thuộc nhiều vào giống lúa và chất lượng nguồn nước mà các nông hộ đang sử dụng phục vụ cho canh tác. Các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, tìm ra các giống lúa có khả năng chịu mặn tốt và năng suất cao. Bảng 5. Các thông số kỹ thuật trồng lúa trong mô hình T – L năm 2014 Chỉ tiêu Giá trị Lượng lúa giống (kg/ha/vụ) 120,07±101,47 Chi phí thuốc (triệu đồng/ha/vụ) 15,23±2,15 Lượng phân bón (kg/ha/vụ) 301,41±111,13 Năng suất lúa (kg/ha/vụ) 5545,75±2077,96 (Nguồn: Kết quả phỏng vấn tại huyện Mỹ Xuyên 2014) 83TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 3.6. Hạch toán kinh tế năm sản xuất lúa Phân tích hiệu quả sản xuất lúa Lợi nhuận từ trồng lúa (chiếm 10% trong tổng thu nhập) thấp hơn nhiều so với lợi nhuận từ con tôm, vì con tôm đóng vai trò chủ đạo trong cơ cấu thu nhập của nông hộ. Lợi nhuận từ lúa chỉ góp phần nhỏ trong thu nhập, nhưng nó có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo lương thực cho nông hộ (Hình 2). Góp phần tạo thêm sự đa dạng cho thu nhập và nguồn lương thực của nông hộ. Tỉ suất lợi nhuận là 1,16 điều này có nghĩa là chi phí đầu tư là 1 thì lợi nhuận thu vào là 1,16 (đã trừ chi phí). Điều này cho thấy hiệu quả sản xuất của cây lúa khá cao, do giảm được chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Bảng 6. Hiệu quả trồng lúa trong mô hình T – L tính cho 1ha năm 2014 Chỉ tiêu Giá trị Năng suất trung bình (kg/ha/vụ) 5.545 Giá bán trung bình (đồng) 4.334 Tổng thu (triệu đồng/ha/vụ) 24,04±11,40 Tổng chi (triệu đồng/ha/vụ) 11,60±4,57 Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 12,43±9,49 Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC) 1,16±0,81 (Nguồn: Kết quả phỏng vấn tại huyện Mỹ Xuyên 2014) Phân tích cơ cấu chi phí đầu tư của lúa Trong các chi phí sản xuất lúa, thì chi phí thu hoạch chiếm tỉ lệ cao nhất, nguyên nhân do nền ruộng thấp so với bờ ruộng và nền đất có kết cấu không chặt khó áp dụng máy móc cho thu hoạch. Hình 4. Cơ cấu chi phí đầu tư cho 1 ha trồng lúa trong năm 2014 84 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Việc thu hoạch lúa chỉ có thể áp dụng bằng phương pháp thủ công, nên ảnh hưởng đến chi phí và lợi nhuận của nông dân. Chi phí phân bón, thuốc trừ sâu giảm đáng kể so với mô hình chuyên lúa, điều đó giúp hạt gạo có chất lượng cao và an toàn, do ít sử dụng thuốc hóa học. Trong các chi phí sản xuất, thì chi phí giống khá cao do nông dân phải sử dụng những giống lúa chịu mặn, giá lúa giống còn cao so với vùng chuyên lúa. Vì vậy, cần có chính sách phù giúp người dân hạ giá thành sản phẩm tăng thu nhập (Hình 4). IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1. Kết luận Diện tích canh tác trung bình của các hộ dân ở hai mô hình T – L và CT thuộc huyện Mỹ Xuyên là 1,50 ha/hộ. Mật độ thả nuôi của tôm TCT 43 PL/m2 cao hơn so với T – L 21 PL/m2. Hệ số FCR của CT và T – L gần như tương đồng với nhau là 1,22. Năng suất của CT 3,13 tấn/ha/ vụ cao hơn rất nhiều so với T – L 1,32 tấn/ha/vụ. Chi phí sản xuất, thu nhập, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận và chi phí của CT cao hơn T – L. Mô hình CT có lợi nhuận trung bình 97 triệu đồng/ha/vụ cao hơn 77 triệu đồng/ha/vụ so với mô hình T – L. CT có mức chi phí đầu tư cao hơn 2,28 lần và số tiền lỗ khi gặp rủi ro cũng nhiều hơn mô hình T – L, CT sẽ lỗ khoảng 85 triệu đồng/ha/vụ so với 27,5 triệu đồng/ha/vụ so với T – L. Nguồn thu nhập chính từ hai mô hình trên đều là tôm, nhưng đối với T – L hiệu quả sản xuất của cây lúa khá cao với tỉ suất lợi nhuận là 1,16 do giảm được chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Trong các chi phí sản xuất, thì chi phí giống lúa chiếm 10% là khá cao do nông dân phải sử dụng những giống lúa chịu mặn, giá giống còn cao so với vùng sản xuất chuyên lúa. Lợi nhuận từ trồng lúa chiếm 10% trong tổng thu, tuy lợi nhuận này thấp nhưng lúa có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo lương thực cho nông hộ và tạo ra sự đa dạng cho thu nhập và nguồn lương thực của nông hộ. 4.2. Đề xuất Để mô hình T – L tại huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng được duy trì và phát triển bền vững, chính quyền địa phương (CQĐP) cần thực hiện một số giải pháp sau: Với năng suất và lợi nhuận cao của CT, xu hướng phát triển mô hình này ngày càng mạnh kèm theo những rủi ro càng lớn. CQĐP phải đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về lợi ích và hiệu quả của hình thức nuôi tôm lúa nhằm duy trì mô hình này. Do T – L có tính bền vững cao nên CQĐP cần phối hợp với các cơ quan nghiên cứu tổ chức thực hiện các mô hình trình diễn kết hợp xây dựng Quy trình kỹ thuật nuôi bền vững T – L cho nông dân tham quan, học hỏi kinh nghiệm, nhằm tăng hiệu quả sản xuất của mô hình này. Chi phí lúa trong T – L hiện nay là khá cao nên cần đầu tư hợp tác nghiên cứu lai tạo ra các giống lúa có khả năng chịu mặn, chịu phèn tốt, kháng bệnh, năng suất cao phục vụ mô hình này. Việc rủi ro trong sản xuất tôm nuôi là thường xuyên ở cả 2 mô hình nên cần có chính sách tín dụng hỗ trợ cho sản xuất. 85TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh Sóc Trăng, 2015. Thực trạng phát triển mô hình Tôm – Lúa và giải pháp phát triển mô hình Tôm – Lúa tại tỉnh Sóc Trăng năm 2015. Nguyễn Văn Hảo và Phan Thanh Lâm, 2009. Phát triển hệ thống canh tác tôm - lúa ở ĐBSCL thông qua xây dựng mô hình đồng quản lý. Bài học kinh nghiệm ở huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Báo cáo tham luận tại Hội nghị: Phát triển hệ thống sản xuất lúa tôm biển bền vững vùng ven biển ở ĐBSCL. Trang 74 – 85. Phan Thanh Lâm và Vũ Vi An, 2008. Nuôi trồng và Khai thác thủy sản ở ĐBSCL. Hiện trạng và xu thế phát triển. Viện Nghiên cứu và NTTS 2. Thành phố Hồ Chí Minh. Trang 200. Phòng NNvàPTNT huyện Mỹ Xuyên 2012 – 2014. Báo cáo tổng kết nông nghiệp - thủy sản năm 2012 – 2014. Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Sóc Trăng, 2013. Báo cáo tổng kết nuôi tôm nước lợ năm 2013 nhiệm vụ năm 2014. Trang 1. Trung tâm khuyến nông quốc gia, 2015. Hội nghị “Bàn giải pháp nâng cao hiệu quả và phát triển sản xuất tôm – lúa tại Đồng bằng sông Cửu Long” tại Kiên Giang ngày 23/9/2015. Trương Hoàng Minh, Nguyễn Thái Bình, Trần Trọng Tân, 2011. Thực trạng kỹ thuật, hiệu quả tài chính và tác động của chính sách đến mô hình tôm sú - lúa luân canh ở ĐBSCL. Tạp chí Khoa học. Đại học Cần Thơ. Cần Thơ. (Trang 1 - 8) Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản, 2015. Xây dựng quy hoạch nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn 2030. 135 trang. Tài liệu tiếng Anh Anh, T.P. et al., 2010. Water pollution by intensive brackish shrimp farming in south-east Vietnam: Causes and options for control. Agricultural Water Management, 97(6), pp.872 - 882. Availableat: 2010. 01.18 FAO, 2013. FAO/MARD Technical Workshop on Early Mortality Syndrome (EMS) or Acute Hepatopancreatic Necrosis Syndrome (AHPNS) of Cultured Shrimp (under TCP/VIE/3304), Ha Noi. Preston, N., and Clayton , H., 2003. Rice–shrimp farming in the Mekong Delta: biophysical and socioeconomic issues. ACIAR Technical Reports No. 52e, 170 p. Phan, T.L. et al., 2013. Nutrient characteristics and utilization of striped catfish pond sediment (Pangasiandon hypophthalus) in the Mekong Delta, Viet Nam. In International Fisheries Symposium 2013. Pattaya RIA2, 2009. Fisheries comanagement: A case study in rice-shrimp rotation in Soc Trang province, Research Institute for Aquaculture No.2, Ho Chi Minh. 86 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 COMPARISON OF EFFICIENCIES AMONG WHITE LEG SHRIMP FARMING PRACTICES IN MY XUYEN DISTRICT, SOC TRANG PROVINCE Doan Van Bay1*, Phan Thanh Lam1, Tran Van Nhuong2, Trinh Quang Tu3 ABSTRACT The study attempts to compare efficiencies between white leg shrimp (L. vannamei) farming practices of semi – intensive (SI) and integrated rice – shrimp systems (RS), and it contributes to the development plan of re-structured fisheries sector in Soc Trang province. This study was carried out by face to face interview on 64 RS and 62 SI farmers during December 2014 and January 2015 in My Xuyen district, Soc Trang province. The results showed that there was not significant difference about farm area between RS and SI, with an average farm size of 1.5 ha. Stocking density in SI was higher than that of RS, with 43 PL/m2 and 21 PL/m2, respectively (p<0.05). Shrimp yield of SI and RS was 3.13 tons/ha/crop and 1.32 tons/ha/crop, respectively. Total cost in SI was 2.28 times higher than that of RS, and hence SI has been riskier than RS in term of the shrimp production. Profit from rice cultivation of RS accounted for 10% of total income and it contributed an important role in both income and food supply for local RS households. For sustainable development of RS, local authorities should give more intervention to this farming system, studies on rice varieties selection and improvement credit of policies. Keywords: integrated rice – shrimp model, semi-intensive shrimp culture, farming efficiency. Người phản biện: ThS. Nguyễn Văn Trọng Ngày nhận bài: 18/11/2015 Ngày thông qua phản biện: 18/12/2015 Ngày duyệt đăng: 25/12/2015 1. Department of Fisheries ecology and Aquatic resources, Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: baydv.ria2@mard.gov.vn 2. Worldfish Center 3. Vietnam Intitute of Fisheries Economics and Planning
File đính kèm:
- so_sanh_hieu_qua_cac_mo_hinh_nuoi_tom_the_chan_trang_tai_huy.pdf