Nghiên cứu xây dựng quy trình phân tích đạm tiêu hóa trong thức ăn tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
TÓM TẮT
Độ tiêu hóa protein là một chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá chất lượng nguyên liệu sản xuất thức
ăn thủy sản. Đã có rất nhiều nghiên cứu nhằm phát triển các phương pháp in vitro xác định nhanh
protein tiêu hóa, thay thế phương pháp nuôi thử nghiệm in vivo. Các phương pháp pH stat, pH
drop, pepsin tiêu hóa sử dụng đơn/đa enzyme, một giai đoạn/nhiều giai đoạn đã được nghiên cứu
từ những năm 1970 trên động vật hữu nhũ, cho kết quả tương quan đáng kể so với phương pháp in
vivo. Tuy nhiên, cho đến nay việc áp dụng các phương pháp này cho động vật thủy sản vẫn chưa có
nhiều nghiên cứu. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đang thực hiện nghiên cứu về
quy trình xác định nhanh protein tiêu hóa trong thức ăn tôm thẻ chân trắng. Mục tiêu của đề tài là
tìm ra một công cụ hỗ trợ cho công tác quản lý của các nhà chức năng khi kiểm tra, đánh giá chất
lượng thức ăn trên thị trường. Đề tài đã tiến hành khảo sát 5 phương pháp: pH drop 3 hay 4 enzyme,
pH stat 3 hay 4 enzyme và phương pháp pepsin tiêu hóa. Kết quả cho thấy chỉ có phương pháp
pH stat 3 enzyme là có mối tương quan đáng kể so với phương pháp in vivo (R2 = 0,6664), những
phương pháp còn lại có hệ số tương quan khá thấp (R2 < 0,13).="" tuy="" nhiên,="" hệ="" số="" tương="" quan="">
phương pháp pH stat 3 enzyme vẫn chưa cao để áp dụng, do đó đề tài sẽ tiếp tục khảo sát thêm để
có thể nâng cao hệ số tương quan cũng như độ chính xác của phương pháp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu xây dựng quy trình phân tích đạm tiêu hóa trong thức ăn tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
NG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Bảng 3. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn tôm thẻ chân trắng được khảo sát Thức ăn Ẩm (%) Protein (%, VCK) Lipid (%, VCK) Tro (%, VCK) Xơ (%, VCK) NPP (%, VCK) TT A0 (40%) 8,81 ± 0,04 46,09 ± 0,43 7,24 ± 0,04 13,49 ± 0,05 2,65 ± 0,03 9,18 ± 0,02 TT A4 (40%) 8,12 ± 0,03 46,51 ± 0,26 7,15 ± 0,25 11,54 ± 0,11 1,61 ± 0,02 8,74 ± 0,02 TT A5 (38%) 8,50 ± 0,04 46,10 ± 0,35 7,41 ± 0,20 10,93 ± 0,02 2,67 ± 0,04 8,31 ± 0,04 TT B1 (40%) 8,89 ± 0,03 47,47 ± 0,08 8,21 ± 0,03 13,74 ± 0,02 2,49 ± 0,03 8,62 ± 0,02 TT B3 (40%) 9,88 ± 0,06 46,76 ± 0,25 8,09 ± 0,10 13,80 ± 0,07 2,34 ± 0,03 9,37 ± 0,01 TT B4 (38%) 9,67 ± 0,02 46,51 ± 0,17 7,47 ± 0,04 13,36 ± 0,01 3,16 ± 0,01 8,30 ± 0,02 TT C3 (40%) 7,71 ± 0,05 45,40 ± 0,16 7,87 ± 0,06 11,32 ± 0,03 3,19 ± 0,04 8,65 ± 0,02 TT C4 (38%) 8,62 ± 0,02 44,52 ± 0,04 8,01 ± 0,13 11,12 ± 0,03 2,06 ± 0,05 8,13 ± 0,01 TT C4Plus (40%) 7,48 ± 0,05 46,10 ± 0,51 7,03 ± 0,12 11,33 ± 0,04 2,66 ± 0,04 9,49 ± 0,01 TT D3 (40%) 8,92 ± 0,01 44,22 ± 0,06 6,73 ± 0,36 13,74 ± 0,03 3,46 ± 0,06 8,43 ± 0,03 3.3. Đánh giá phương pháp in vitro xác định độ tiêu hóa protein trong thức ăn tôm thẻ chân trắng bằng thử nghiệm in vivo Trong thời gian nuôi thử nghiệm các yếu tố môi trường đều nằm trong khoảng rất thuận lợi cho sự sinh trưởng của tôm, trong đó nhiệt độ từ 26,2 – 28,5oC; pH: 7,2 – 8,3; DO: 6,3 – 7,3 mg/l; NH3: 0,002 – 0,18 mg/l; NO2: 0,003 – 0,019 mg/l. Nguyên nhân là do quá trình chăm sóc quản lý tốt, sử dụng hệ thống sục khí liên tục, kết hợp với sử dụng hệ thống lọc nước vào ban đêm, đồng thời do thí nghiệm tiến hành thu phân nên trong bể nuôi tôm hầu như không có nhiều các chất cặn như thức ăn dư hay vỏ tôm lột xác. Mối tương quan giữa phương pháp in vitro và phương pháp in vivo được thể hiện trong bảng 4. Bảng 4. Bảng so sánh kết quả xác định độ tiêu hóa protein bằng phương pháp in vitro và in vivo Thức ăn pH drop (RPD, %) pH stat (DH, %) Pepsin tiêu hóa (%) Độ tiêu hóa biểu kiến APD (%)Hệ 3 enzyme Hệ 4 enzyme Hệ 3 enzyme Hệ 4 enzyme Không tính NPP Tính NPP TT A0 58,03 ± 0,59 75,21 ± 1,89 19,83 ± 0,53 23,90 ± 1,15 87,61 ± 0,61 84,53 ± 0,76 76,99 ± 0,51 TT A4 60,77 ± 1,18 77,69 ± 0,60 20,92 ± 1,35 24,74 ± 0,46 89,41 ± 0,75 86,96 ± 0,92 78,64 ± 0,64 TT A5 60,11 ± 0,00 78,01 ± 2,12 21,25 ± 1,78 22,92 ± 0,18 89,29 ± 0,75 86,94 ± 0,92 80,47 ± 1,01 TT B1 58,54 ± 1,18 80,83 ± 1,09 20,78 ± 0,62 22,60 ± 1,39 88,57 ± 1,06 85,96 ± 1,30 78,13 ± 1,96 TT B3 62,42 ± 3,08 80,37 ± 1,32 19,38 ± 2,11 22,49 ± 2,38 90,47 ± 0,96 88,07 ± 1,20 77,79 ± 0,72 134 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TT B4 61,81 ± 3,63 77,86 ± 2,36 19,95 ± 0,56 24,77 ± 1,52 93,53 ± 0,39 92,17 ± 0,47 76,72 ± 1,60 TT C3 60,80 ± 2,10 78,85 ± 1,05 18,11 ± 0,14 22,60 ± 0,14 93,07 ± 2,69 91,44 ± 3,33 75,20 ± 0,58 TT C4 62,92 ± 3,00 78,11 ± 1,84 19,17 ± 2,32 21,90 ± 0,84 85,27 ± 1,31 81,98 ± 1,61 74,57 ± 0,55 TT C4Plus 61,25 ± 0,00 82,05 ± 1,05 18,63 ± 1,17 21,14 ± 1,15 87,03 ± 1,14 83,66 ± 1,44 76,02 ± 0,34 TT D3 62,67 ± 1,77 78,94 ± 0,80 19,61 ± 1,72 23,12 ± 0,69 87,29 ± 0,72 84,29 ± 0,89 78,54 ± 3,49 Hệ số tương quan (R2) 0,0719 0,0047 0,6664 0,1245 0,0015 0,0023 Phương trình hồi quy y = -0,2853x + 94,693 y = -0,063x + 82,275 y = 1,4353x + 48,944 y = 0,5362x + 64,967 y = 0,0264x + 74,956 y = 0,0259x + 75,067 Khi so sánh giữa phương pháp pH drop 3 enzyme và phương pháp pH drop 4 enzyme, cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Kết quả độ tiêu hóa protein tương đối thu được từ phương pháp pH drop 4 enzyme luôn cao hơn so với phương pháp pH drop 3 enzyme. So sánh giữa phương pháp pH stat 3 enzyme và phương pháp pH stat 4 enzyme, cho thấy có sự khác biệt đáng kể. Kết quả độ tiêu hóa protein tương đối thu được từ phương pháp pH stat 4 enzyme luôn cao hơn so với phương pháp pH stat 3 enzyme. Kết quả giữa phương pháp pepsin tiêu hóa có và không có tính hàm lượng nitơ phi protein cho thấy không khác biệt đáng kể. Nếu tính đến hàm lượng nitơ phi protein thì kết quả protein tiêu hóa luôn thấp hơn so với khi không tính hàm lượng nitơ phi protein. Kết quả đánh giá các phương pháp in vitro dựa trên mối tương quan giữa phương pháp in vitro và phương pháp in vivo cho thấy hệ số tương quan của 5 phương pháp (pH drop 3 enzyme, pH drop 4 enzyme, pH stat 4 enzyme, pepsin tiêu hóa và pepsin tiêu hóa có tính NPP) đều thấp R2 < 0,13. Chỉ có phương pháp pH stat 3 enzyme cho hệ số tương quan tương đối (R2 = 0,6664). Riêng đối với phương pháp pepsin tiêu hóa, có thể nhận thấy khi độ tiêu hóa in vitro < 90% thì các mẫu khá tuyến tính (R2 = 0,7741). Tuy nhiên, khi protein tiêu hóa in vitro > 90% thì APD lại bắt đầu giảm chứ không tăng theo. Như vậy, có thể phương pháp pepsin tiêu hóa chỉ thích hợp xác định độ tiêu hóa protein đối với những mẫu có protein tiêu hóa in vitro < 90%. Cần thiết xác định trên nhiều mẫu hơn nữa để có thể khẳng định điều này. 135TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hình 3. Mối tương quan giữa phương pháp pepsin tiêu hóa (< 90%) và phương pháp in vivo IV. THẢO LUẬN Hiện nay, trên Thế giới vẫn chưa có phương pháp chuẩn xác định độ tiêu hóa protein trong thức ăn thủy sản, chỉ có phương pháp pepsin tiêu hóa AOAC 971.09 là phương pháp xác định đạm tiêu hóa trong các loại nguyên liệu có nguồn gốc động vật, mà chủ yếu là bột cá. Sở dĩ như vậy vì thức ăn hoàn toàn khác với nguyên liệu. Thức ăn là một hỗn hợp, bao gồm cả nguyên liệu có nguồn gốc động vật, thực vật, một số nhà máy còn bổ sung đạm thủy phân với mục đích tăng tính hấp dẫn. Thành phần thức ăn thì vô cùng đa dạng, các nhà máy sử dụng rất nhiều các loại nguyên liệu khác nhau, mỗi loại nguyên liệu lại có nhiều nguồn gốc khác nhau (ví dụ như bột cá Peru có chất lượng hoàn toàn khác với bột cá sản xuất trong nước). Công thức phối trộn thức ăn cũng khác nhau ở từng nhà máy, từng thời điểm. Chính vì sự phối trộn đa dạng của thức ăn làm cho nền mẫu thức ăn vô cùng phức tạp. Ngoài ra, khả năng tiêu hóa của vật nuôi còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trường, độ tuổi và sức khỏe. Chính vì những điều đó mà hiện nay vẫn chưa có một phương pháp nào được xem là phương pháp chuẩn để đánh giá độ tiêu hóa protein trong thức ăn thủy sản. Đã có rất nhiều nghiên cứu phát triển phương pháp in vitro xác định nhanh protein tiêu hóa nhằm thay thế phương pháp nuôi thử nghiệm in vivo. Tuy nhiên, mối tương quan cao nhất giữa các kết quả thu được từ phương pháp in vivo và in vitro chỉ có được khi so sánh riêng biệt nguồn gốc của nguồn đạm là đạm động vật hay đạm thực vật. Trong những mẫu bao gồm luôn cả đạm động vật và đạm thực vật thì những phương pháp in vitro sử dụng enzyme cho kết quả chỉ có tính tương đối (Pedersen & Eggum, 1983). Khi khảo sát, đánh giá các phương pháp in vitro trên thức ăn tôm thẻ chân trắng, kết quả thu được chỉ có phương pháp pH stat 3 enzyme cho mối tương quan đáng kể (R2 = 0,6664), những phương pháp còn lại cho hệ số tương quan thấp (R2 < 0,13). Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Pedersen & Eggum (1983) khi 2 tác giả này xem xét mối tương quan giữa các phương pháp in vitro và in vivo trên mẫu thực phẩm. Kết quả nghiên cứu của Pedersen & 136 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Eggum cho thấy phương pháp pH stat 3 enzyme có mối tương quan với phương pháp in vivo cao hơn so với phương pháp pH drop 3 và 4 enzyme và phương pháp pH stat 4 enzyme (R2 = 0,94). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy hệ số tương quan của phương pháp pH stat 3 enzyme vẫn còn khá thấp, cần thực hiện nhiều thử nghiệm hơn nữa. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu dinh dưỡng trên thế giới, các phương pháp in vitro dùng trong xác định protein tiêu hóa của thức ăn thủy sản chỉ có tính tương đối, không thể đưa ra một giá trị chính xác mà giá trị này có thể phân biệt được chất lượng giữa các mẫu thức ăn có chất lượng tốt. Tuy nhiên, các phương pháp này có thể sử dụng xác định đâu là mẫu thức ăn có chất lượng rất xấu so với các mẫu thức ăn có chất lượng tốt. Đây cũng là một cách tiếp cận cần xem xét thực hiện. V. KẾT LUẬN Qua các kết quả nghiên cứu thu được, hiện đề tài có thể đi đến một số kết luận sau: - Kết quả xác định độ tiêu hóa protein và độ thủy phân bằng các phương pháp pH drop 3 và 4 enzyme, pH stat 3 và 4 enzyme trên thức ăn tôm thẻ chân trắng cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các phương pháp. Tuy nhiên, đối với phương pháp pepsin tiêu hóa, việc tính hay không tính đến hàm lượng Nitơ phi protein lại không khác biệt đáng kể. - Khi xem xét mối tương quan giữa phương pháp in vitro và phương pháp in vivo trên thức ăn tôm thẻ chân trắng, chỉ có phương pháp pH stat 3 enzyme cho mối tương quan đáng kể (R2 = 0,6664), những phương pháp còn lại cho hệ số tương quan thấp (R2 < 0,13). Tuy nhiên, để áp dụng trong thực tế nhằm kiểm soát chất lượng thức ăn, hệ số tương quan của phương pháp pH stat 3 enzyme còn tương đối thấp, cần tăng số lượng mẫu khảo sát nhằm tăng mức độ tương quan, độ chính xác và độ tin cậy của phương pháp. - Đối với phương pháp pepsin tiêu hóa, khi xét những mẫu có độ tiêu hóa in vitro < 90%, mối tương quan giữa in vitro và in vivo khá tuyến tính (R2 = 0,7741). Đây cũng là trường hợp cần xem xét khi tăng số lượng mẫu. TÀI LIỆU THAM KHẢO AOAC, 1999. Official methods of analysis of AOAC international (16th ed.). Washington, DC: Association of Official Analytical Chemists. Buchanan R. A., 1969. In vivo and in vitro methods of measuring nutritional value of leaf protein preparations. Br. J. Nutr. 23, 533-544. Dimes, L. E. & Haard, N. F., 1994. Estimation of protein digestibility – I. Development of an in vitro method for estimating protein digestibility in salmonids (Salmo gairdneri). Comparative Biochemistry and Physiology. 108A, 349 – 362. Ezquerra, J. M., Garcia-Carreno, F. L., Civera, R., Haard, N. F., 1997. pH-stat method to predict protein digestibility in white shrimp (Penaeus vannamei). Aquaculture 157, 251 – 262. Ford J. E. and Slater D. N., 1966. Analysis of enzymatically digested food proteins by Sephadexgel filtration. Br. J. Nutr. 20, 843-860. Hsu, H. W., Vavak, D. L., Satterlee, L. D., Miller, G. A., 1977. A multienzyme technique for estimating protein digestibility. Journal of Food Science. 42(5), 1269 – 1271. Lazo, J. P., Romaire, R. P., Reigh, R. C., 1998. Evaluation of three in vitro enzyme assays for estimating protein digestibility in the Pacific white shrimp Penaeus vannamei. Journal of the 137TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 World Aquaculture Society. 29 (4), 441 – 450. Lemos, D., Lawrence, A.L., Siccardi III, A.J., 2009. Prediction of apparent protein digestibility of ingredients and diets by in vitro pH-stat degree of protein hydrolysis with species-specific enzymes for juvenile Pacific white shrimp Litopenaeus vannamei. Aquaculture 295, 89 – 98. Maga J. H., Lorenz K. & Onayemi O., 1973. Digestive acceptability of proteins as measured by the initial rate of in vitro proteolysis. J. Food Sci. 38, 173- 174. Navarrete del Toro, M. A. & García-Carreño, F. L., 2002. Evaluation of the progress of protein hydrolysis. Current Protocols in Food Analytical Chemistry. B2.2.1-B2.2.14 Pedersen, B. & Eggum, B. O., 1983. Prediction of protein digestibility by an in vitro enzymatic pH- stat procedure. Zeitschrift für Tierphysiologie Tierernährung und Futtermittelkunde. 49 (1-5), 265 – 277. Satterlee, L. D., Marshall, H. F., Tennyson, J. M., 1979. Measuring protein quality. Journal of the American Oil Chemists’ Society 56 (3), 103-109. Sheffner A. L., Eckfelt G. A. & Spector H., 1956. The pepsin-digestive residue (PDR) amino acid index of protein utilization. J. Nutr. 60, 105-120. Siccardi III, A. J., 2006. Daily digestible protein and energy requirements for growth and maintenance of sub-adult Pacific white shrimp (Litopenaeus vannamei). A Dissertation for Doctor of Philosophy (Major subject: Nutrition). Texas A & M University. Sigma-Aldrich, 1993. Enzymatic assay of peptidase. Thresher W. C., Swaisgood H. E. & Catignani G. L., 1989. Digestibilities of the protein in various foods as determined in vitro by an immobilized digestive enzyme assay (IDEA). Plant Fooak for Human Nutrition 39, 59-65. 138 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 STUDY ON METHODS EVALUATING PROTEIN DIGESTIBILITY OF FEEDS FOR WHITE LEG SHRIMP (Litopenaeus Vannamei) Nguyen Thi Lan Chi1, Nguyen Van Nguyen1, Le Thi Lam1, Vu Mai Hoa2 ABSTRACT Protein digestibility is an important indicator in quality assessment for aquafeed ingredients. Many in vitro assays have been developed for quick estimation of protein digestibility and replacement of feeding trials. pH stat, pH drop and pepsin digestibility with single/multi enzyme, one/two step digestion have been studied for mammals from 1970s. These methods have been found to correlate well with in vivo protein digestibil- ity. However, to date, the application of in vitro assays for shrimp and fish is still not populated. Currently, Research Institute for Aquaculture No. 2 has performed a research on quick procedures evaluating protein digestibility of feeds for white leg shrimp. The objective of this research is to find a diagnosis tool to support authority departments in quality control of commercial aquafeeds. In the study, five in vitro methods (includ- ing pH drop with 3 or 4 enzyme, pH stat with 3 or 4 enzyme and pepsin digestibility) were investigated. The results showed that only the three-enzyme pH stat method was well correlated with in vivo technique (R2 = 0,6664). The other methods had a low regression coefficient between in vitro and in vivo protein digestibility (R2 < 0,13). However, the regression coefficient of the three-enzyme pH stat system is still not high for utiliza- tion. Therefore, it is necessary to conduct more experiments in order to increase the correlation and accuracy. Keywords: protein digestibility, in vitro, in vivo, pH drop, pH stat, pepsin digestibility, white leg shrimp feeds. Người phản biện: TS. Vũ Anh Tuấn Ngày nhận bài: 12/9/2013 Ngày thông qua phản biện: 25/9/2013 Ngày duyệt đăng: 15/10/2013 1 Centre for Fishery Post-harvest Technology, Research Institute for Aquaculture No. 2 Email: lanchiria2@yahoo.com.vn 2 University of Science Ho Chi Minh City.
File đính kèm:
- nghien_cuu_xay_dung_quy_trinh_phan_tich_dam_tieu_hoa_trong_t.pdf