Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre

TÓM TẮT

Nghiên cứu đã xác định sự biến đổi của một số yếu tố chất lượng nước và sự hiện diện của một

số mầm bệnh trên nghêu Meretrix lyrata ở Bến Tre trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 10 năm

2016. Kết quả quan sát những dấu hiệu bất thường của nghêu trong mùa dịch bệnh cho thấy chúng

thường có vỏ bị tổn thương, thịt không đầy vỏ (nghêu gầy), ngậm cát trong xoang cơ thể, màng

áo xuất hiện những đốm/mảng trắng và tuyến tiêu hóa chuyển màu vàng. Chất lượng nước tại bãi

nuôi: pH, NO2, NH3, H2S không có khác biệt giữa mùa mưa và mùa khô nhưng sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê được xác định ở yếu tố nhiệt độ và độ mặn (P<0,05). mật="" độ="" vi="" khuẩn="" vibrio="" tổng="">

trong nước dao động từ 0,33 - 4,2.103 cfu/ml trong đó 4 loài Vibrio parahaemolyticus, V. vulnificus,

V. alginolyticus và V. cholerae chiếm ưu thế. Sự hiện diện của Copepod bên trong xoang cơ thể và

Barnacle (hà) bám bên ngoài vỏ nghêu cũng được phát hiện với tỷ lệ nhiễm thấp, lần lượt là 2,92%

và 0,83%. Ngoài ra, nghiên cứu này đã xác định được ký sinh trùng nội ký sinh trên nghêu nuôi tại

Bến Tre là Perkinsus sp. với tỉ lệ 35% và cường độ nhiễm 1,62 – 1.283,22 bào tử/g thịt. Biểu hiện

mô học đặc trưng của nghêu bệnh là cấu trúc của mô mang, ống gan tụy và chân nghêu biến đổi có

hiện diện của ký sinh trùng Perkinsus sp., và sinh vật giống Rickettsia.

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 1

Trang 1

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 2

Trang 2

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 3

Trang 3

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 4

Trang 4

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 5

Trang 5

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 6

Trang 6

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 7

Trang 7

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 9960
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre

Nghiên cứu sự biến đổi một số yếu tố chất lượng nước và xác định mầm bệnh trên nghêu (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) ở tỉnh Bến Tre
 bùn (à), 
(C): Thịt màu trắng đục (à) và (D): Thịt màu 
vàng (à).
3.4. Kết quả phân lập vi khuẩn
Kết quả nhuộm Gram cho thấy đa số các 
chủng vi khuẩn bắt màu Gram âm, có dạng hình 
que ngắn. Vi khuẩn cho phản ứng oxidase và 
catalase dương tính, có khả năng lên men trong 
cả hai điều kiện hiếu khí và yếm khí trong môi 
trường O/F và mẫn cảm với O/129. Dựa vào 
đặc điểm hình thái, các chỉ tiêu sinh lý, sinh 
hóa của chủng vi khuẩn được kiểm tra dựa 
theo cẩm nang của Cowan và Steels (Barrow 
và Feltham, 1993); xác định định danh được 
đều thuộc giống vi khuẩn Vibrio sp., với tần 
suất và tỷ lệ nhiễm như sau: trong đó vi khuẩn 
Vibrio parahaemolitycus chiếm tỉ lệ 29%, V. 
alginolitycus là 25%, V. vulnificus là 35% và 
V. cholerae là 11%. Tất cả các chủng đều cho 
phản ứng âm tính với β-Galactosidaza, arginine 
và phản ứng Voges - Proskauer nhưng cho phản 
ứng dương tính với lysine, chúng không sinh 
ureaza, NO
3
 và H
2
S nhưng sinh indole. Tất cả 
đều mọc trên môi trường TCBS, sử dụng đường 
glucose và manitol nhưng không sử dụng đường 
inositol, sorbitol, rhamnose và arabinose. 
3.5. Kết quả kiểm tra ký sinh trùng
Các cá thể nghêu thu trong nghiên cứu này 
đều có kích cỡ thương phẩm có chiều dài trung 
bình 39,75 ± 5,92 mm và khối lượng thịt trung 
bình là 3,52 ± 1,61g. Kết quả nghiên cứu của 
Villaba et al., (2004), Perkinsus sp. gây bệnh 
trên hàu (Crassostrea virginia) trên 3 tuổi và đối 
với nghêu (Tapes descussatus) dưới một năm 
tuổi thường rất ít bị bệnh. Nguyễn Văn Hảo và 
ctv., (2011) cũng đã công bố mức độ cảm nhiễm 
Perkinsus sp. có liên quan đến kích cỡ nghêu 
Meretrix lyrata tại vùng biển Cần Giờ (Tp. 
HCM). Cỡ nghêu < 20 mm thu vào thời điểm 
nghêu chết (2/2010) và thời điểm không có hiện 
tượng nghêu chết (7/2010) đều có kết quả âm 
tính với Perkinsus sp. Tuy nhiên ở nhóm nghêu 
có kích cỡ > 30mm có tỷ lệ cảm nhiễm 59,7%.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy tỉ lệ 
cảm nhiễm trung bình là 35% và cường độ cảm 
nhiễm biến động trong khoảng 1,62 - 1283,33 bào 
tử/g thịt nghêu và trung bình là 66,57 ± 153,09 
bào tử/g. Tỉ lệ nhiễm ký sinh trùng Perkinsus sp. 
ở mùa khô là 50%, mùa mưa là 30% và cường 
độ cảm nhiễm dao động từ 1,62 - 302,5 bào tử/g 
và 2,2 - 1283,33 bào tử/g. Theo nghiên cứu của 
Chu et al., (1994) cho rằng nhiệt độ là yếu tố 
quan trọng nhất theo sau là độ mặn quyết định 
mức độ nhạy cảm của hàu C. virginica đối với 
Perkinsus sp. Theo Supannee et al., (2004) thì 
độ mặn giảm chính là nguyên nhân làm cho tỷ lệ 
nhiễm Perkinsus thấp vào tháng 9 (66,6%) khi 
so sánh với những tháng khác trong năm. Kết 
quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo và ctv., 
(2011) cho thấy cường độ nhiễm Perkinsus hiện 
diện với tỷ lệ cảm nhiễm trung bình là 60,1%, 
cao nhất vào tháng 2 (98,7%) và thấp nhất vào 
tháng 8 (18,1%). Cường độ cảm nhiễm dao động 
từ 0 – 2.387.203 bào tử/g thịt nghêu, trung bình 
14.932 ± 2.053 bào tử/g, cao nhất vào tháng 
3 (42.650 ± 10.741 bào tử/g) và thấp nhất vào 
28 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
tháng 8 (258 ± 50 bào tử/ g). Như vậy, cường độ 
cảm nhiễm Perkinsus trong nghiên cứu này thấp 
có thể là do trong thời gian thu mẫu không xảy 
ra hiện tượng nghêu chết.
Mẫu mô nghêu sau khi được ngâm trong 
môi trường FTM khoảng 4-5 ngày, ở điều 
kiện tối bào tử Perkinsus tồn tại dạng thể nghỉ 
(hypnospore), có dạng hình tròn và oval bắt 
màu xanh đen đậm khi nhuộm lugol (Hình 3A). 
Các bào tử nghỉ được tách ra khỏi mô nuôi cấy 
bằng cách sử dụng NaOH có dạng tròn, oval, 
tồn tại với dạng vỏ kép dày đặc trưng của giống 
Perkinsus và có kích thước khoảng 30 – 90 µm 
(Hình 3B). Bên trong bào tử nghỉ có nhiều hạt 
dinh dưỡng hoặc các bào tử động tùy theo từng 
giai đoạn phát triển của chúng. Theo nghiên cứu 
của Ngô Thị Thu Thảo (2008) trên nghêu lụa (R. 
undulate) cho thấy kích thước bào tử là 20 – 80 
µm (trung bình 35 µm) và Nguyễn Văn Hảo và 
ctv., (2011) Meretrix lyrata là (30 - 80 µm). 
Hình 3: Bào tử Perkinsus sau khi nuôi cấy 
trong môi trường FTM. (A): Bào tử Perkinsus 
nhuộm lugol (10X); (B) Bào tử Perkinsus giai 
đoạn vỏ kép (à) (40X).
3.6. Biến đổi cấu trúc mô học ở các cơ 
quan của nghêu
Mang 
Quan sát tiêu bản mô học cho thấy có sự 
hiện của sinh vật giống Rickettsia trên mang. 
Các vi sinh vật này có hình khối tròn đến oval bắt 
màu xanh tím của thuốc nhuộm hematoxyline, 
bên trong có chứa nhiều vi khuẩn bắt màu gram 
âm (Hình 4B). Sinh vật ký sinh làm tổn thương 
nghiêm trọng cho cấu trúc mang nghêu và xuất 
hiện nhiều tế bào máu. Từ đó làm suy giảm chức 
năng hô hấp khi bệnh xảy ra và cấu trúc mang bị 
phá hủy nghiêm trọng.
Hình 4. Một số biếu hiện mô học trên mang 
nghêu; (A): Mang bình thường, (B): Mang 
nhiễm sinh vật giống Rickettsia (à), (C): Bào 
tử Perkinsus sp. trên mô liên kết mang (à)
Quan sát tiêu bản mô mang nghêu bị tổn 
thương do khi có tác nhân gây bệnh kí sinh hoặc 
các yếu tố vật lý, hóa học kích thích gây nên 
một số hiện tượng như sợi mang dính lại với 
nhau, trương phình kèm theo hiện tượng tập 
trung nhiều tế bào máu và hoại tử. Hiện tượng 
tổn thương nặng có thể dẫn tới làm biến đổi mất 
cấu trúc cả phiến mang, giảm diện tích tiếp xúc 
của mang với môi trường ngăn cản quá trình hô 
hấp của nghêu. Kết quả ghi nhận sự biến đổi 
cấu trúc mô học của đề tài khá tương đồng với 
các kết quả nghiên cứu trước đây trên các loài 
nhuyễn thể nhiễm Rickettsia (Fries và Grant, 
1991) và Wen et al., (1994).
Tiêu bản mô học trên mang nghêu có sự 
hiện diện của ký sinh trùng Perkinsus sp. Khi 
các bào tử Perkinsus sp. ký sinh trên mô liên 
kết mang, tuyến tiêu hóa và màng áo rất khó 
phát hiện trên tiêu bản mô học ở những cá thể 
bị nhiễm bệnh. Perkinsus sp. tồn tại dưới dạng 
trophozoit trưởng thành và chưa trưởng thành. 
Ở giai đoạn trưởng thành (trophozoites) chúng 
có dạng hình vòng nhẫn nhân lệch cực và không 
bào lớn, đường kính trung bình 4 - 6 µm (Hình 
4C). Các trophozoites thường tập hợp thành 
từng cụm gồm 2 - 8 tế bào hay tạo thành bào 
nang, chúng tập trung chủ yếu trên mô liên kết 
mang và xuất hiện nhiều tế bào máu. Sự hiện 
diện của Perkinsus có thể phá vỡ cấu trúc bình 
thường của mô đích, làm chết tế bào vật chủ 
và làm tăng cường sự hiện diện của tế bào máu 
khi có sự hiện diện của ký sinh trùng. Kết quả 
nghiên cứu này cho thấy tương tự như kết quả 
29TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
quan sát của nhiều tác giả; các bào tử Perkinsus 
thường có liên quan đến việc phá hủy, làm mất 
cấu trúc bình thường của tế bào và từ đó làm 
mất chức năng của mô nhiễm (OIE, 2009). 
Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự với kết 
quả của Choi et al., (2002) Perkinsus thường 
tập trung trên mang nghêu Manila (Ruditapes 
philippinarum) khi bị nhiễm bệnh nhẹ. Biến đổi 
mô học ở mang cũng được tìm thấy trên nghêu 
lụa (R. undulata) (Ngô Thị Thu Thảo, 2008) và 
nghêu Bến Tre (Phạm Quốc Hùng và Hứa Thị 
Ngọc Dung, 2016). 
Tuyến tiêu hóa/ gan tụy
Kết quả phân tích mô gan tụy nghêu cho 
thấy bào tử nghỉ của ký sinh trùng Perkinsus 
xâm nhập vào mô liên kết tuyến tiêu hóa làm 
thay đổi cấu trúc của cơ quan này. Perkinsus 
xuất hiện nhiều tại mô liên kết gan tụy kiến cho 
cấu trúc ống gan bị thoái hóa, xung huyết tập 
trung nhiều tế bào máu xung quanh ổ bệnh (Hình 
5B). Kết quả này tương tự với quan sát của các 
nhà nghiên cứu khác: các tế bào Perkinsus sp. 
thường có liên quan đến việc phá hủy, làm mất 
cấu trúc bình thường và từ đó làm mất chức 
năng của mô nhiễm (Bruce, 2000; OIE, 2009).
Hình 5. Một số biểu hiện mô học ở gan tụy 
nghêu; (40X) (A): Mô gan tụy bình thường ống 
gan mở (à), (B): Mô gan tụy ống thay đổi và 
nhiễm ký sinh trùng Perkinsus (à).
Chân
Cấu trúc mô học của chân nghêu gồm 
nhiều lớp: biểu bì, mô liên kết và mô cơ. Các 
sợi cơ tập trung tạo thành bó cơ (Hình 6A). 
Trên mô chân nghêu bệnh cũng có một số biến 
đổi như các bó cơ liên kết rời rạc, hoại tử, 
mất cấu trúc và sự xuất hiện của nhiều không 
bào (Hình 6B). Hiện tượng mô chân nghêu bị 
tổn thương có thể là do sự thay đổi về yếu tố 
môi trường như sự thay đổi của độ mặn giữa 
mùa khô và mùa mưa. Kết quả tương tự cũng 
được ghi nhận ở trên bào ngư (Haliotis discus 
hannai) khi tiến hành thí nghiệm với các độ 
mặn khác nhau (Kim et al., 2013). Khi bị tổn 
thương sẽ ảnh hưởng đến chức năng của chân, 
có thể dẫn tới hiện tượng nghêu chết.
Hình 6. Một số biếu hiện mô học chân 
nghêu (100X). (A): Mô bình thường gồm các 
bó sợi cơ (à), (B): Mô tổn thương, bó cơ bị xơ 
(à) và xuất hiện các không bào (à).
IV. KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã xác định được dấu hiệu bất 
thường của nghêu trong mùa dịch bệnh cho thấy 
chúng thường có vỏ bị tổn thương, thịt không 
đầy vỏ (nghêu gầy), ngậm cát trong xoang 
cơ thể, màng áo xuất hiện những đốm/mảng 
trắng và tuyến tiêu hóa chuyển màu vàng. Mật 
độ vi khuẩn Vibrio tổng trong nước dao động 
0,33 - 4,2 x 103 cfu/ml, trong đó 4 loài Vibrio 
parahaemolyticus, V. vulnificus, V. alginolyticus 
và V. cholerae chiếm ưu thế. Ký sinh trùng 
nội kí sinh là Perkinsus sp. tỉ lệ nhiễm 35% và 
cường độ cảm nhiễm 1,62 - 1283,33 bào tử/g và 
ký sinh trùng Copepod bên trong xoang cơ thể 
và Barnacle (hà) bám bên ngoài vỏ nghêu cũng 
được phát hiện với tỷ lệ nhiễm thấp, lần lượt là 
2,92% và 0,83%. Cấu trúc mô học đặc trưng của 
nghêu bệnh là mang, ống gan tụy và chân nghêu 
cầu trúc mô biến đổi và có hiện diện của ký sinh 
trùng Perkinsus sp., và sinh vật giống Rickettsia. 
30 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Chính, 1996. Một số loài động vật Nhuyễn 
thể (Mollusca) có giá trị kinh tế ở biển Việt Nam. 
NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội 1996, 132 
trang. 
Nguyễn Văn Hảo, Ngô Thị Ngọc Thủy, Tiêu Thanh 
Tươi, Hoàng Thị Hiền, Phạm Lâm Chính 
Văn, Nguyễn Vy Vân, 2011. Sự hiện diện của 
Perkinsus sp. trên nghêu (Meretrix lyrata) tại 
vùng biển Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh. 
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 
tháng 12/2011, 97-105.
Phạm Quốc Hùng và Hứa Thị Ngọc Dung, 2016. 
Nghiên cứu mức độ cảm nhiễm và đặc điểm 
mô bệnh học của bệnh ký sinh trùng Perkinsus 
sp. gây ra trên Tu hài (Lutraria rhynchaena) và 
nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata). 
Ngô Thị Thu Thảo, 2008. Một số đặc điểm của ký 
sinh trùng Perkinsus sp. lây nhiễm trên nghêu 
lụa Paphia undulata ở Kiên Giang và Bà Rịa – 
Vũng Tàu. Tạp chí Khoa học 2008 (1): 222-230. 
Trường Đại học Cần Thơ. 
Tài liệu tiếng Anh
Anderson, I., 1993. The veterinary approach to 
marine prawns. In: Aquaculture for veterinarians: 
fish husbandry and medicine (Editor Brown L.): 
271-296.
Barrow, G.I and R.K.A. Feltham,1993. Cowan an 
Steel’s Manual for the Indentification of Medical 
Bacteria, third edition. Cambridge Unuversity 
press. Cambridge. 331 pp.
Chu, F.L., A.K Volety and G. Constantin. 1994. 
Synergetic effects of temperature & salinity on the 
responses of oysters (Crassostrea virginica) to the 
pathogen, Perkinsus marinus. J. Shellfish Res. 13: 
293. 
Choi K.S., Wilson E.A., Lewis D.H., Powell E.N., 
Ray S.M., 1989. The energetic cost of Perkinsus 
marinus parasitism in oysters: quantification of 
the thioglycollate method. Journal of Shellfish 
Research 8 :125–131.
Dame, R. F. (2012). Chapter 3: Physical, 
Environmental Interactions. Ecology of Marine 
Bivalves: An Ecosystem Approach, Second 
Edition. Baton Rouge, CRC Press, Taylor & 
Francis Group: 272.
Fries C. R, Grant, D. M., 1991. Rickettsiae in gill 
epithelial cells of the hard clam, Mercenaria 
mercenaria. J Invertebr Pathol, 57: 166–171. 
Henry, M.; Boucaud-Camou, E. and Lefort, Y. 
(1991). Functional microanatomy of the digestive 
gland of the scallop Pecten maximus (L.).Aquat. 
Living Resour. 4: p191-202.
Ngo Thi Ngoc Thuy, 2013. Perkinsus olseni in 
relation to mortality of Asiatic hard clam 
Meretrix lyrata at Can Gio district, Hochiminh 
city, Vietnam, Asian-Pacific Aquaculture 2013, 
Ho Chi Minh city.
OIE, 2009. Manual of Diagnostic Tests for Aquatic 
Animals.
Sinderman C.J, 1990. Principle disease of marine 
fish and shellfish. Second edition. Volume 2. 
Academic Press Limited. London NW17DX.
Supannee L., Kashane C. E., Upatham S., Choi 
K.S., Sawangwong P., Kruatrachue M., 2004. 
Occurrence of Perkinsus sp. in Undulated 
surf clams Paphia undulata from the Gulf of 
Thailand. Disease of Aquaculture Organisms 60: 
165-171.
Villaba, A., K. S. Reece. M. C. Ordas, S. M. Casas 
and Figueras (2004). Perkinsosis in molluscs: A 
review. Aquatic Living Resourses 17, pp. 411-
432.
Wen. Chiou-Ming, Kou. Guang-Hsiung and 
Chen. Shiu-Nan, 1994. Rickettsiaceae-like 
Microorganisms in the Gill and Digestive Gland 
of the Hard Clam, Meretrix lusoria Röding. 
Journal of Invertebrate Pathology; 64, 2; 138-
142.
31TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
STUDY ON THE CHANGES OF ENVIRONMENT AND PATHOGENS IN 
WHITE CLAM (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) 
IN BEN TRE PROVINCE
Nguyen Thanh Ha1*, Ngo Thi Ngoc Thuy1, Tu Thanh Dung2 and Huynh Nguyen Duy3
ABTRACT
This study was carried out to examine the change of water quality parameters and the presence 
of pathogens in white clam (Meretrix lyrata) in Ben Tre province, during period from February 
to October, 2016. The results showed that clam in mortality events revealed pale digestive gland, 
yellow meat and trapped sand particles in the body cavity. The environmental parameters such 
as pH, NO2, NH3 and H2S showed no difference between dry and rainy seasons. Whereas, 
significant difference in temperature and salinity between the two seasons was recorded (p<0.05). 
The total viable Vibrio density in water was in the range of 0.33 - 4.2 x 103 cfu/mL. They were 
identified as Vibrio parahaemolyticus, V. alginolyticus, V. vulnificus, and V. cholerae. The results 
also indicated two groups of parasites, copepod and barnacle, with the infection rates of 2.92% 
and 0.83%, respectively. The presence of Perkinsus sp. was detected in the clam tissue with the 
infection rate of 35% and the infection intensity of 1.62 - 1283 hypnospores g-1 clam tissue. Finally, 
histological analysis indicated necrosis of gill, hepatopancreatic and foot tissues, some changes in 
clam’s muscles, and the presence of Perkinsus sp., rickettsia-like organisms in the internal organs.
Keywords: Bacteria, clam, Meretrix lyrata, parasites, Perkinsus, Ben Tre province.
Người phản biện: TS. Đinh Thị Thủy 
Ngày nhận bài: 08/6/2018
Ngày thông qua phản biện: 20/6/2018
Ngày duyệt đăng: 10/7/2018
1 Research Sub-Institute for Nam Song Hau Fisheries, Research Institute for Aquaculture No.2.
2 College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University. 
3 Ben Tre Sub-Department of Animal Health.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_su_bien_doi_mot_so_yeu_to_chat_luong_nuoc_va_xac.pdf