Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản

TÓM TẮT Dựa theo nguyên tắc phát triển bền vững, nuôi trồng thủy sản phải là hoạt động có kế hoạch được thực hiện theo phương thức có trách nhiệm để giảm thiểu các tác động môi trường. Liên quan đến môi trường tự nhiên, một trong những thách thức của việc phát triển nuôi trồng thủy sản là duy trì chất lượng môi trường. Điều đó có nghĩa việc phát triển nuôi trồng thủy sản nên được tiếp cận dựa trên quan điểm sinh thái. Bài viết này đề cập một số khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản bao gồm chất thải từ nuôi trồng thủy sản, các chỉ thị chất lượng nước và những cộng cụ quản lý hành chính

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 1

Trang 1

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 2

Trang 2

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 3

Trang 3

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 4

Trang 4

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 5

Trang 5

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 6

Trang 6

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 7

Trang 7

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 4060
Bạn đang xem tài liệu "Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản

Một vài khía cạnh quản lý môi trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản
 giá thống nhất hơn về điều kiện tổng thể 
qua thời gian dài. Sự phân bố, tính phong phú 
và thành phần của quần xã thực vật và/hoặc 
động vật đặc trưng được sử dụng rộng rãi với 
tính chất là các chỉ thị sinh thái (Bảng 1).
2.2. Một số công cụ hành chính quản lý môi 
trường đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản
Đối với nuôi trồng thủy sản, bên cạnh những 
biện pháp kỹ thuật, có thể cân nhắc việc quản 
lý môi trường bằng cách áp dụng các công cụ 
hành chính. 
2.2.1 Tiếp cận sinh thái đối với hoạt động 
nuôi trồng thủy sản (Ecosystem approach to 
aquaculture - EAA) và lập kế hoạch nuôi trồng 
thủy sản
Điều được thừa nhận rộng rãi rằng việc 
phát triển nuôi trồng thủy sản trong tương lai 
nên được lập kế hoạch theo phương thức có 
trách nhiệm nhằm giảm thiểu các tác động 
bất lợi về mặt môi trường và xã hội càng 
nhiều càng tốt. Như đã được chỉ ra bởi José 
và cộng sự (2017) [1], một bước thiết yếu 
là lập kế hoạch không gian thỏa đáng ở cấp 
địa phương, vùng và quốc gia, và tính toán 
các vấn đề xuyên biên giới ở nơi mà những 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 123
Các đặc 
trưng
Xác định quy mô Phân vùng
Lựa chọn 
địa điểm
Quản lý khu vực
Mục đích 
chủ yếu
Lập kế hoạch chiến 
lược đối với việc phát 
triển và quản lý 
Kiểm soát việc phát 
triển; giảm thiểu xung 
đột; giảm bớt những 
nguy cơ; tối đa hóa các 
sử dụng bổ sung qua lại 
nguồn lực đất và nước 
Giảm bớt 
các nguy 
cơ; tối ưu 
hóa hoạt 
động sản 
xuất
Bảo vệ môi trường; 
giảm bớt nguy cơ 
dịch bệnh; giảm bớt 
xung đột
Quy mô 
không 
gian
Toàn cầu đến quốc gia Vùng/khu vực 
Trang tại 
hoặc tập 
hợp trang 
trại
Tập hợp trang trại
Bảng 2. Những đặc trưng chính trong xác định quy mô, phân vùng, lựa chọn địa điểm và 
quản lý khu vực hoạt động nuôi trồng thủy sản
vấn đề này có tính chất phù hợp. Mặc dù 
nhiều quan ngại về xã hội và môi trường 
xoay quanh những tác động xuất phát từ nuôi 
trồng thủy sản có thể được chỉ ra ở mức trang 
trại, hầu hết các tác động mang tính tích lũy. 
Những tác động có thể không có ý nghĩa khi 
xem xét từng trang trại nhưng mức ý nghĩa 
có khả năng gia tăng khi có nhiều trang trại 
trong cùng một khu vực, hoặc khi xem xét 
toàn ngành. Tiến trình và các bước qua đó 
hoạt động nuôi trồng thủy sản được lập kế 
hoạch và quản lý về mặt không gian, và kết 
hợp vào trong bối cảnh kinh tế và sinh thái 
của địa phương được đặt thuật ngữ là “Tiếp 
cận sinh thái đối với hoạt động nuôi trồng 
thủy sản” (EAA).
Ba nguyên tắc chi phối việc thực hiện tiếp 
cận sinh thái đối với hoạt động nuôi trồng thủy 
sản (EAA): (i) Nuôi trồng thủy sản nên được 
phát triển trong bối cảnh không gây ra bất kỳ 
sự suy thoái nào đối với các chức năng và dịch 
vụ của hệ sinh thái vượt quá khả năng thích 
ứng của chúng. (ii) Nuôi trồng thủy sản phải 
cải thiện đời sống của con người với sự công 
bằng đối với tất cả các bên liên quan (ví dụ 
quyền tiếp cận và chia sẻ công bằng các nguồn 
thu nhập). (iii) Nuôi trồng thủy sản nên được 
phát triển trong bối cảnh cân nhắc thỏa đáng 
các ngành, chính sách và mục tiêu khác. 
EAA cung cấp một khung lập kế hoạch và 
quản lý nhằm kết hợp có hiệu quả hoạt động nuôi 
trồng thủy sản với việc lập kế hoạch địa phương, 
và đưa đến những cơ chế rõ ràng đối với việc 
gắn kết cùng những nhà sản xuất và chính quyền 
đối với việc quản lý bền vững một cách hiệu quả 
những hoạt động nuôi trồng thủy sản bằng cách 
xem xét các mục tiêu địa phương và quốc gia, xã 
hộ, kinh tế, môi trường và quản trị. 
Tiến trình lập kế hoạch (về) không gian 
thường bao gồm 3 bước sau:
(i) Quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản 
(Aquaculture zoning): xem xét đồng thời các 
tiêu chí nhằm xác định địa điểm nuôi trồng 
thủy sản và những hoạt động khác nhằm xác 
định các vùng phù hợp với những hoạt động 
khác nhau hoặc phối hợp các hoạt động. 
(ii) Lựa chọn địa điểm (Site selection): xác 
định những điểm thỏa đáng nhất để phát triển 
(các) trang trại riêng lẻ trong các vùng. 
(iii) Các khu vực quản lý nuôi trồng thủy 
sản (Aquaculture management areas - AMAs): 
trong các vùng, AMAs bao gồm một số trang 
trại riêng lẻ cùng chia sẻ một nguồn (cung cấp) 
nước chung và/hoặc trong điều kiện gần gũi 
như vậy, dịch bệnh và chất lượng nước được 
quản lý chung một cách tốt nhất hơn là theo 
từng trang trại riêng lẻ.
Theo José và cộng sự (2017) [1], tiến trình 
và các bước được khuyến nghị của việc thực 
hiện lập kế hoạch và quản lý về không gian yêu 
cầu thêm nhiều hoạt động/công việc được tóm 
tắt qua bảng sau.
124 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020
(Nguồn: Kapetsky và cộng sự, 2013; trích từ José và cộng sự, 2017 [1]; trang 6)
Các đặc 
trưng
Xác định quy mô Phân vùng
Lựa chọn 
địa điểm
Quản lý khu vực
Thực thể 
hoạt động 
(Execut-
ing entity)
Các tổ chức hoạt động 
ở quy mô toàn cầu; Cơ 
quan/bộ phận phụ trách 
nuôi trồng thủy sản 
quốc gia 
Các chính phủ và 
chính quyền địa 
phương có liên quan 
đến nuôi trồng thủy 
sản 
Các tổ chức 
thương mại
Các hiệp hội nông 
dân; các cơ quan 
quản lý
Nhu cầu 
dữ liệu
Cơ bản, liên quan đến 
tính khả thi về kỹ thuật 
và kinh tế; tăng trưởng 
và các mục đích sử 
dụng khác
Bối cảnh môi trường, 
xã hội và kinh tế cơ 
bản 
Tất cả các 
dữ liệu có 
sẵn
Dữ liệu về sức tải và 
các mô hình về nguy 
cơ dịch bệnh 
Giải pháp 
yêu cầu
Thấp Trung bình Cao Cao
Kết quả 
đạt được
Mang tính chỉ thị rộng 
Có định hướng, chi tiết 
hóa ở mức trung bình
Chí tiết hóa 
cụ thể đầy 
đủ
Chi tiết hóa mức 
trung bình đến đầy 
đủ
2.2.2 Đánh giá tác động môi trường 
(Environmental Impact Assessment - EIA) và 
quan trắc (monitoring) trong nuôi trồng thủy sản
Theo thời gian, đánh giá tác động môi trường 
(Environmental Impact Assessment - EIA) và 
quan trắc (monitoring) được áp dụng ở nhiều 
quốc gia ở Châu Phi, Châu Á - Thái Bình Dương, 
Châu Âu, Bắc Mỹ và Mỹ La Tinh, với tính chất 
là một yêu cầu mang tính luật pháp đối với bất 
kỳ sự phát triển mới nào của hoạt động nuôi 
trồng thủy sản [5]. Tuy nhiên, EIA đầy đủ không 
được áp dụng cho đa số hoạt động nuôi trồng 
thủy sản toàn cầu. Điều này là do hầu hết hoạt 
động nuôi trồng thủy sản có quy mô nhỏ, và ở 
nhiều quốc gia nuôi trồng thủy sản là hoạt động 
mang tính truyền thống. Do vậy, EIA được xem 
như là một công cụ quản lý môi trường đối với 
hoạt động nuôi trồng thủy sản, nó cần phải được 
áp dụng tùy theo trường hợp. Theo FAO (2009), 
thực tiễn EIA thay đổi rất lớn, mặc dù thường 
tuân theo các chuẩn quốc gia và quốc tế. Giai 
đoạn thứ nhất thường là sàng lọc để xác định nếu 
EIA, hoặc quy mô EIA nào, được yêu cầu. Đa số 
những quốc gia áp dụng các ngưỡng (giới hạn) 
bao gồm diện tích (area), công suất hoạt động 
(production volume), mật độ, công nghệ và đối 
tượng sản xuất. Trong một số trường hợp, EIA 
được khởi động bởi tính chất cụ thể như là việc 
nhập nội các đối tượng nuôi.
Trong thực tiễn, EIA sẽ có ảnh hưởng lớn đối 
với nghiên cứu khả thi, trong trường hợp những 
quy trình hoạt động khác nhau sẽ được đánh giá 
về các tác động môi trường của chúng [2]. Với 
tính chất là bước đầu tiên trong quy trình, xác 
định quy mô của EIA, một danh sách tất cả các tác 
động môi trường có khả năng xảy ra từ việc phát 
triển được đề xuất phải được soạn thảo, bằng cách 
sử dụng kinh nghiệm đã có về những hoạt động 
nuôi trồng thủy sản tương tự. Các nội dung của 
danh sách phải được đánh giá, bằng cách sử dụng 
phương pháp cho điểm nếu phù hợp, nhằm xác 
định những tác động có khả năng là mối quan ngại 
có ý nghĩa về môi trường. EIA nên được tập trung 
vào những nhân tố này. Bảng dưới đây minh họa 
tác động môi trường bất lợi không giới hạn đối với 
môi trường nước, nhưng trong trường hợp nuôi 
trồng thủy sản, những tác động nghiêm trọng nhất 
có khả năng có liên quan đến sự giải phóng các 
tác nhân (gây ô nhiễm) vào môi trường nước dưới 
dạng kết quả của hoạt động nuôi trồng thủy sản. 
Một khi quy mô đã được xác định, các 
nghiên cứu “đầu vào” (baseline study) có thể 
được tiến hành để thu thập khoảng thông tin 
cần thiết để thực hiện việc đánh giá.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 125
Bảng 3. Xác định quy mô của một EIA đối với một trang trại nuôi cá thâm canh mới
(Nguồn: Midden và Redding, 1998 [2]; trang 71)
Xếp loại tác động Nguồn (của) tác động
Phú dưỡng dòng sông Xả thải dinh dưỡng
Suy giảm oxy nước sông Hô hấp của cá/BOD dòng thải
Giảm lưu tốc Ngăn cản dòng chảy
Biến đổi nền đáy Trầm tích các chất rắn
Ngăn cản tuyến đường di chuyển của sinh vật Các đập nước
Phá hủy sinh cảnh đất ngập nước/rừng ngập mặn (giá 
trị sinh vật hoang dại cao, xung đột sử dụng)
Việc xây dựng ao
Xáo trộn môi trường sống sinh vật tự nhiên Các hoạt động xây dựng
Ảnh hưởng đến việc thưởng ngoạn (khu vực có cảnh 
đẹp)
Lưới/công trình xây dựng ngăn vật dữ
Biến động các quần thể cá tự nhiên
Cạnh tranh giữa cá thoát ra và cá tự 
nhiên, tương tác về di truyền, lan truyền 
dịch bệnh
Ô nhiễm hydrcarbon đối với đất và nước Thất thoát dầu diesel 
Biến đổi các quần thể vi sinh vật và động vật không 
xương sống 
Sử dụng kháng sinh và hóa chất
Ô nhiễm tiếng ồn Máy quạt gió/bơm/phương tiện cơ giới
Cùng với EIA, như được chỉ rõ bởi FAO 
(2009) [5], quan trắc có thể áp dụng cho: 
- Việc tiến hành trong thực tiễn các điều 
kiện/yêu cầu hoặc kế hoạch phát sinh từ EIA;
- Đánh giá tình trạng môi trường ở khu vực 
lân cận của trang trại là khu vực phải được EIA 
(bởi người nuôi hoặc cơ quan có thẩm quyền); và 
- Đánh giá tình trạng môi trường rộng hơn, 
khu vực có thể bị ảnh hưởng bởi một hoặc 
nhiều trang trại nuôi trồng thủy sản và những 
hoạt động khác.
Những vấn đề nêu trên ngụ ý rằng quan trắc 
có tính chất ưu tiên cho việc quản lý môi trường 
có hiệu quả đối với hoạt động nuôi trồng thủy 
sản. Chúng ta sẽ ít hiều biết về các vấn đề môi 
trường mang tính thiết yếu liên quan đến một địa 
phương hoặc kiến thức về tính hiệu quả của bất 
kỳ những can thiệp nào về mặt quản lý nếu không 
có quan trắc môi trường, bao gồm cả EIA [5].
Trong thực tế, phương thức tiếp cận giám 
sát và đánh giá cụ thể được vận dụng trong bất 
kỳ tình huống cho trước nào sẽ được xác định 
bởi một loạt các nhân tố bao gồm, nhưng không 
giới hạn chỉ những nhân tố đó, đối tượng nuôi, 
sản lượng, địa điểm, dạng thức ăn và hóa chất 
sử dụng, và công nghệ nuôi có thể áp dụng,... 
Trong việc thiết lập chương trình quan trắc/
đánh giá môi trường, yêu cầu cần thiết là các 
mục tiêu phải được xác định rõ ràng và chúng 
phải làm rõ (i) tại sao việc đánh giá được thực 
hiện, (ii) “ranh giới” (không gian/thời gian/
sinh thái) của việc đánh giá, (iii) mức độ chính 
xác yêu cầu và (iv) các kết quả mong muốn từ 
việc đanh giá. Thật không may, thực tế những 
yêu cầu này thường bị xem nhẹ với việc đánh 
giá được thực hiện cho một mục đích đặc biệt 
mà nó không đại diện cho tất cả các vấn đề 
môi trường, hoặc những chương trình giám sát 
126 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020
được thiết kế rõ ràng là không thỏa đáng đối 
với mục tiêu của chúng [4]. 
Theo Crawford và MacLeod (2009) [4], 
chương trình quan trắc bao gồm đánh giá 
“đầu vào” thường bao gồm một vài chỉ thị về 
chất lượng nước và điều kiện sinh thái. Luôn 
như vậy, không bất kỳ “biến số” môi trường 
nào cung cấp thông tin đầy đủ về “sức khỏe” 
của môi trường xoay quanh hoạt động nuôi 
và một sự kết hợp các biến số được yêu cầu; 
việc lựa chọn “biến số” nào sẽ tùy thuộc vào 
các đòi hỏi về kinh tế, xã hội và sinh thái. Các 
biến môi trường được đánh giá phải có tính 
SMART (specific, measurable, achievable, 
relevant and time-bound - cụ thể, có thể đánh 
giá được, có thể thu được, tương thích và thể 
hiện thời gian). 
Việc thừa nhận tính pháp lý của EIA và 
quan trắc ở nhiều quốc gia và việc áp dụng 
của chúng đối với một số hình thức nuôi trồng 
thủy sản đã nâng cao nhận thức về các vấn đề 
môi trường gắn liền với nuôi trồng thủy sản, 
và điều này tự mình có khả năng đưa đến việc 
quản lý môi trường tốt hơn. Tuy nhiên, nhiều 
nhược điểm đã được xác định bởi FAO (2009) 
[5] như là khó khăn trong việc chỉ rõ những tác 
động tích lũy của nhiều phát triển quy mô nhỏ 
thông qua EIA quy ước; thiếu các mục tiêu và 
quy chuẩn môi trường, đặc biệt trong trường 
hợp (phù hợp với) bối cảnh địa phương, mà 
điều ngược với chúng là để đánh giá được tác 
động và thiết kế làm giảm tác động; sự tham 
gia hoặc sự lôi kéo các bên liên quan bị hạn 
chế, hoặc ở đâu điều này được thực hiện, việc 
quản lý kém và giải pháp xử lý xung đột không 
thỏa đáng; hoặc thiếu việc quan trắc, phân tích 
và phản hồi có hiệu quả đối với việc quản lý 
theo ngành, cũng như đối với việc quản lý từng 
trang trại riêng lẻ, hoặc nhóm các trang trại;... 
Theo FAO (2009) [5], tất cả những điều này 
thể hiện một xu hướng đối với các chính quyền 
và cơ quan ban ngành có liên quan là tập trung 
vào những kỹ thuật cụ thể (như là EIA) hơn là 
vào hệ thống quản lý mang tính thích ứng đối 
với ngành nuôi trồng thủy sản. Điều quan trọng 
là một hệ thống như vậy phải được lồng ghép 
với các bộ phận ở cấp quốc gia, ở cấp thủy vực, 
và ở cấp trang trại.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng các công cụ khác 
có thể được áp dụng trong việc quản lý môi 
trường đối với nuôi trồng thủy sản như là (các) 
quy định và quy trình kỹ thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aguilar-Manjarrez José, Doris Soto and Randall Brummett (Eds), (2017). “Aquaculture zoning, site 
selection and area management under the ecosystem approach to aquaculture - A handbook” . FAO/The 
World bank.
2. Alex Midden and Theresa A. Redding, (1998). “Environmental management for Aquaculture”. Kluwer 
Academic Publishers. 
3. Craig S. Tucker, John A. Hargreaves, and Claude E. Boyd, (2008). “Aquaculture and the Environment 
in the United States. In: Craig S. Tucker and John A. Hargreaves (Eds)”, Environmental Best Management 
Practices for Aquaculture. Blackwell Publishing.
4. C. Crawford and C. MacLeod, (2009). “Predicting and assessing the environmental impact of aquaculture. 
In: Gavin Burnell and Geoff Allan (Eds), New technologies in aquaculture - Improving production efficiency, 
quality and environmental management”. CRC press. 
5. FAO, (2009). “Environmental impact assessment and monitoring in aquaculture - Requirements, practices, 
effectiveness and improvements”. Fisheries and Aquaculture Technical Papers 527.
6. James H. Tidwell (Ed), (2018). “Aquaculture Production Systems”. World Aquaculture Society. 
Wiley - Blackwell. 
7. T.V.R Pillay, (2004). “Aquaculture and the Environment (Second Edition)”. Blackwell Publishing.
8. Simon J. Cripps and Asbjørn Bergheim, (2000). “Solids management and removal for intensive land-based 
aquaculture production systems”. Aquacultural Engineering, Volume 22, Issues 1 - 2, Pages 33 - 56.

File đính kèm:

  • pdfmot_vai_khia_canh_quan_ly_moi_truong_doi_voi_hoat_dong_nuoi.pdf