Kiểm chứng mô hình tương quan giữa độ tiêu hóa protein in vivo và in vitro trên thức ăn tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
TÓM TẮT
Các nhà quản lý chất lượng thức ăn thủy sản hiện đang tìm kiếm một công cụ nhằm kiểm tra độ tiêu
hóa protein của thức ăn. Đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình phân tích đạm tiêu hóa trong thức
ăn thủy sản” được thực hiện ở Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đã bước đầu xây dựng được
6 mô hình hồi quy mô tả mối tương quan giữa độ tiêu hóa in vitro và độ tiêu hóa in vivo với hệ số
tương quan khá cao (R2 > 0,9). Tuy nhiên, để đạt được hệ số tương quan này, các mô hình dự đoán
phải là đường cong phi tuyến và đi qua điểm 0. Đây là giả định rất khó xảy ra trong thực tế vì không
thể có mẫu cho độ tiêu hóa protein in vivo và in vitro bằng 0. Chính vì vậy, chúng tôi đã thực hiện
kiểm tra lại các mô hình này trên sáu mẫu thức ăn chế biến trong phòng thí nghiệm. Kết quả kiểm
tra cho thấy tất cả các mô hình dự đoán đều cho số dư dự đoán và độ chệch cao chứng tỏ các mô
hình này không phù hợp để dự đoán giá trị độ tiêu hóa protein protein, cần thiết phải xây dựng lại
mô hình hồi quy phù hợp, không đi qua điểm 0.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểm chứng mô hình tương quan giữa độ tiêu hóa protein in vivo và in vitro trên thức ăn tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
ịnh (%) Số dư dự đoán Độ chệch (%) Độ đúng (%) TĐC 51,59 ± 0,37 69,71 62,09 ± 2,03 7,61 12,26 112,26 T20 47,00 ± 2,02 66,28 61,79 ± 1,29 4,49 7,27 107,27 T40 53,30 ± 0,30 70,84 60,78 ± 1,58 10,06 16,55 116,55 T60 54,99 ± 3,12 71,89 59,76 ± 2,70 12,13 20,29 120,29 T80 53,43 ± 0,30 70,93 55,41 ± 0,21 15,51 28,00 128,00 T100 19,15 ± 6,05 33,91 53,93 ± 2,19 -20,02 -37,12 62,88 Từ bảng 6 và 7 có thể nhận thấy với các khẩu phần có chứa bột cá (TĐC, T20 – T80) thì phương pháp pepsin (không tính và có tính hàm lượng NPP) cho kết quả độ tiêu hóa pepsin tương tự nhau, chỉ có khẩu phần thay thế bột cá hoàn toàn (T100) mới có độ tiêu hóa pepsin thấp. Điều này cho thấy phương pháp pepsin (không tính và có tính hàm lượng NPP) chỉ có thể phân biệt giữa thức ăn không chứa bột cá và thức ăn có chứa bột cá, chứ không thể đánh giá chất lượng giữa các khẩu phần có độ tiêu hóa khác nhau khi các khẩu phần này có chứa bột cá. Khi thế giá trị độ tiêu hóa pepsin vào mô hình tương quan thì kết quả cho thấy số dư dự đoán tăng dần khi tăng phần trăm thay thế bột cá bằng bánh dầu đậu nành. Tuy nhiên, khi thay thế hoàn toàn bột cá bằng bánh dầu đậu nành (T100) thì cho số dư dự đoán âm. Điều này chứng tỏ mô hình tương quan được xây dựng giữa phương pháp pepsin tiêu hóa và phương pháp in vivo chỉ phù hợp để dự đoán những thức ăn có thành phần protein có nguồn gốc động vật, khi mẫu thức ăn có thành phần protein có nguồn gốc thực vật cao thì khả năng dự đoán không còn chính xác nữa. Bảng 8. Kết quả số dư dự đoán, độ chệch và độ đúng khi kiểm chứng mô hình tương quan giữa phương pháp pH drop 3 enzyme và in vivo Mẫu RPD (%) APD dự đoán (%) APD xác định (%) Số dư dự đoán Độ chệch (%) Độ đúng (%) TĐC 68,02 ± 2,69 74,56 62,09 ± 2,03 12,46 20,07 120,07 T20 68,44 ± 2,50 74,40 61,79 ± 1,29 12,61 20,41 120,41 T40 73,89 ± 3,76 72,33 60,78 ± 1,58 11,55 18,99 118,99 T60 67,44 ± 1,88 74,76 59,76 ± 2,70 15,00 25,10 125,10 T80 55,03 ± 6,28 78,21 55,41 ± 0,21 22,80 41,15 141,15 T100 67,40 ± 1,65 74,78 53,93 ± 2,19 20,85 38,65 138,65 126 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Kết quả từ bảng 8 cho thấy phương pháp pH drop 3 enzyme cho độ tiêu hóa protein tương đối thay đổi không theo một khuynh hướng nào khi tăng phần trăm thay thế bột cá bằng bánh dầu đậu nành. Khi xét số dư dự đoán cho thấy khi tăng phần trăm thay thế bánh dầu đậu nành lên đến 60% (T60) thì số dư dự đoán bắt đầu tăng. Điều này chứng tỏ khả năng dự đoán APD của phương pháp pH drop 3 enzyme không cao, đặc biệt khi tăng phần trăm thành phần protein có nguồn gốc thực vật (thay thế từ 60% trở lên). Bảng 9. Kết quả số dư dự đoán, độ chệch và độ đúng khi kiểm chứng mô hình tương quan giữa phương pháp pH drop 4 enzyme và in vivo Mẫu RPD (%) APD dự đoán (%) APD xác định (%) Số dư dự đoán Độ chệch (%) Độ đúng (%) TĐC 64,55 ± 1,78 79,54 62,09 ± 2,03 17,45 28,10 128,10 T20 66,89 ± 0,69 78,98 61,79 ± 1,29 17,19 27,82 127,82 T40 64,05 ± 0,92 79,66 60,78 ± 1,58 18,88 31,05 131,05 T60 67,53 ± 2,17 78,83 59,76 ± 2,70 19,07 31,91 131,91 T80 68,53 ± 1,50 78,59 55,41 ± 0,21 23,18 41,84 141,84 T100 68,72 ± 1,51 78,55 53,93 ± 2,19 24,62 45,64 145,64 Tương tự phương pháp pH drop 3 enzyme, phương pháp pH drop 4 enzyme cho số dư dự đoán cao và đặc biệt tăng khi thức ăn thay thế từ 80% bánh dầu đậu nành (Bảng 9). Như vậy, phương pháp pH drop 4 enzyme cũng giống như phương pháp pH drop 3 enzyme có khả năng dự đoán APD không cao, nhất là khi phần trăm protein thực vật cao (thay thế từ 80% trở lên). Bảng 10. Kết quả số dư dự đoán, độ chệch và độ đúng khi kiểm chứng mô hình tương quan giữa phương pháp pH stat 3 enzyme và in vivo Mẫu DH (%) APD dự đoán (%) APD xác định (%) Số dư dự đoán Độ chệch (%) Độ đúng (%) TĐC 7,99 ± 0,16 71,43 62,09 ± 2,03 9,33 15,03 115,03 T20 7,90 ± 0,16 71,43 61,79 ± 1,29 9,63 15,59 115,59 T40 6,00 ± 0,38 66,25 60,78 ± 1,58 5,47 9,00 109,00 T60 6,36 ± 0,00 67,54 59,76 ± 2,70 7,77 13,01 113,01 T80 6,60 ± 0,22 67,99 55,41 ± 0,21 12,58 22,70 122,70 T100 5,99 ± 0,38 66,14 53,93 ± 2,19 12,21 22,64 122,64 Bảng 10 cho thấy phương pháp pH stat 3 enzyme có khuynh hướng cho kết quả DH cao ở những khẩu phần có phần trăm bột cá cao, và ngược lại cho kết quả DH thấp ở những khẩu phần có phần trăm bột cá thấp. Số dư dự đoán từ phương pháp pH stat 3 enzyme thấp hơn so với các phương pháp khác. Ở khẩu phần T80 và T100 số dư dự đoán cao hơn so với các khẩu phần còn lại, nhưng chênh lệch không nhiều. Điều này cho thấy phương pháp pH stat 3 enzyme có khả năng dự đoán APD ổn định hơn so với các phương pháp khác. 127TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Bảng 11. Kết quả số dư dự đoán, độ chệch và độ đúng khi kiểm chứng mô hình tương quan giữa phương pháp pH stat 4 enzyme và in vivo Mẫu DH (%) APD dự đoán (%) APD xác định (%) Số dư dự đoán Độ chệch (%) Độ đúng (%) TĐC 14,77 ± 0,00 73,44 62,09 ± 2,03 11,35 18,28 118,28 T20 15,69 ± 0,25 74,53 61,79 ± 1,29 12,74 20,61 120,61 T40 16,29 ± 0,24 75,12 60,78 ± 1,58 14,33 23,58 123,58 T60 15,49 ± 0,25 74,43 59,76 ± 2,70 14,67 24,55 124,55 T80 13,78 ± 0,40 72,33 55,41 ± 0,21 16,92 30,53 130,53 T100 14,22 ± 0,24 73,01 53,93 ± 2,19 19,08 35,37 135,37 Giá trị DH thu nhận từ phương pháp pH stat 4 enzyme không cho thấy một khuynh hướng rõ rệt nào khi tăng phần trăm thay thế bột cá bằng bánh dầu đậu nành (Bảng 11). Khi xét số dư dự đoán, kết quả cho thấy khi tăng phần trăm thay thế bột cá bằng bánh dầu đậu nành thì số dư dự đoán tăng. Sở dĩ như vậy là do giá trị APD giảm, trong khi đó giá trị APD dự đoán thay đổi không đáng kể. Bảng 12. Điểm trung bình của số dư dự đoán và độ chệch khi kiểm chứng mô hình TT Phương pháp Điểm TB của số dư dự đoán Điểm TB của độ chệch 1 Pepsin 10,72 18,30 2 Pepsin-NPP 11,28 19,60 3 pH drop 3 enzyme 18,55 27,40 4 pH drop 4 enzyme 20,06 34,39 5 pH stat 3 enzyme 9,50 16,33 6 pH stat 4 enzyme 14,85 25,49 Khi thực hiện kiểm chứng, các giá trị APD dự đoán dựa trên các phương trình hồi quy phi tuyến có bổ sung điểm 0 cho số dư dự đoán (từ 9,50 – 20,06 điểm) và độ chệch (từ 16,33 – 34,39 điểm) khá cao. Trong đó, phương pháp pH stat 3 enzyme cho điểm trung bình của số dư dự đoán và độ chệch thấp nhất (9,50 và 16,33 điểm, tương ứng). Chứng tỏ phương pháp pH stat 3 enzyme có khả năng dự đoán APD ổn định hơn so với các phương pháp khác, tuy nhiên số dư dự đoán còn khá cao chứng tỏ mô hình hồi quy phi tuyến có bổ sung điểm 0 chưa phải là mô hình dự đoán tốt nhất. 128 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Bảng 13. So sánh trung bình giữa phương pháp in vitro và in vivo Phương pháp P(Levene test) P (Kruskal-Wallis test) Pepsin 0,029 0,001 Pepsin-NPP 0,006 0,001 pH drop 3 enzyme 0,001 0,000 pH drop 4 enzyme 0,000 0,000 pH stat 3 enzyme 0,026 0,000 pH stat 4 enzyme 0,000 0,000 Khi thực hiện xử lý thống kê so sánh giá trị trung bình của 2 phương pháp in vivo và in vitro, kết quả cho thấy tất cả các phương pháp đều cho kết quả APD dự đoán khác biệt có ý nghĩa thống kê so với giá trị APD in vivo (P < 0,05) (Bảng 13). IV. THẢO LUẬN Một trong những thách thức đối với các nhà quản lý là tìm ra một công cụ nhanh chóng và đáng tin cậy có thể dùng để dự đoán tương đối chính xác độ tiêu hóa protein của thức ăn thủy sản bày bán trên thị trường, nhằm quản lý chặt chẽ hơn tình hình chất lượng thức ăn hiện nay. Đây cũng là một nhu cầu quan trọng của ngành công nghiệp sản xuất thức ăn thủy sản khi phương pháp in vitro có thể giảm đáng kể chi phí cũng như nhân công trong quá trình đánh giá nguyên liệu và thiết lập công thức thức ăn. Phương pháp in vitro mô phỏng sự tiêu hóa in vivo trên nguyên liệu đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới quan tâm và cho kết quả rất khả quan, hệ số tương quan tương đối cao. Tuy nhiên, việc ứng dụng phương pháp này vào đánh độ tiêu hóa protein của thức ăn thủy sản lại nhận được ít sự quan tâm hơn do tính chất phức tạp của thức ăn khi thức ăn là một hỗn hợp bao gồm cả protein thực vật lẫn protein động vật, trong khi đó, phương pháp in vitro chỉ cho tương quan cao khi xét đến nguồn gốc protein riêng biệt (Pedersen & Eggum, 1983). Chính vì vậy, khi thực hiện đánh giá tương quan giữa độ tiêu hóa protein in vitro và in vivo trên 40 mẫu thức ăn tôm thẻ chân trắng thương mại, độ tương quan rất thấp (R2 < 0,3) cho tất cả các phương pháp được khảo sát (pH drop, pH stat và pepsin tiêu hóa). Ngoài hạn chế trên, 40 mẫu thức ăn thương mại được khảo sát có tính chất không quá khác biệt nhau nên các điểm trên đồ thị tương quan tập trung lại trong một nhóm giá trị làm cho hệ số tương quan của các phương trình tương quan thấp. Khi sử dụng 6 mẫu thức ăn chế biến trong PTN để kiểm chứng mô hình tương quan thì giá trị APD của 6 mẫu thức ăn này khá thấp (từ 53,93 – 62,09%), và nằm ngoài khoảng dữ liệu của các phương trình hồi quy phi tuyến được xây dựng trên 40 mẫu thức ăn thương mại (từ 67,95 – 84,75%). Bên cạnh đó, số dư dự đoán ở tất cả các phương pháp đều khá cao (điểm trung bình ≥ 9,5). Như vậy, có thể nhận thấy các phương trình hồi quy phi tuyến này không phù hợp để xác định giá trị APD dự đoán đối với các mẫu có độ tiêu hóa biểu kiến thấp hơn khoảng dữ liệu (APD < 67,95%). Ngoài ra, khi bổ sung thêm điểm 0, tức là đã chấp nhận giả thiết khi x = 0 thì y = 0. Trong khi đó, đây là một giả thiết khó xảy ra trong thực tế, cho nên việc xây dựng các phương trình hồi quy phi tuyến đi qua điểm 0 có thể gây ra những sai số đáng kể khi dự đoán giá trị APD. Chính vì vậy, cần xây dựng lại các phương trình hồi quy mà không sử dụng điểm 0. 129TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 V. KẾT LUẬN - Phương pháp pepsin tiêu hóa chỉ phù hợp để dự đoán độ tiêu hóa in vivo khi thức ăn có thành phần protein có nguồn gốc động vật cao, khi mẫu thức ăn có thành phần protein có nguồn gốc thực vật cao thì khả năng dự đoán không còn chính xác nữa. - Phương pháp pH stat 3 enzyme có khả năng dự đoán độ tiêu hóa in vivo ổn định hơn so với các phương pháp in vitro khác, tuy nhiên số dư dự đoán còn khá cao chứng tỏ mô hình hồi quy phi tuyến có bổ sung điểm 0 chưa phải là mô hình dự đoán tốt nhất, cần xây dựng lại phương trình hồi quy mà không sử dụng điểm 0. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Trần Thị Lệ Trinh và Nguyễn Thị Lan Chi, 2013. Báo cáo chuyên đề “Đánh giá độ chính xác quy trình phân tích đạm tiêu hóa thông qua so sánh với kết quả nuôi thử nghiệm in vivo”. Đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình phân tích đạm tiêu hóa trong thức ăn thủy sản”. Đề tài cấp Bộ, chương trình giai đoạn 2011 – 2015. Nguyễn Văn Nguyện, 2012. Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ dự án sản xuất thực nghiệm “Hoàn thiện công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp cho cá tra, tôm sú và tôm càng xanh”. Dự án độc lập cấp Nhà nước, MS: DA – ĐL 2009/04. TCVN 9129, 2011. Thức ăn chăn nuôi – Xác định hàm lượng nitơ hòa tan sau khi xử lý bằng pepsin trong axit clohydric loãng. Tiêu chuẩn quốc gia. Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh 72/199/EEC. Third Commission Directive of 27 April 1972 establishing Community methods of analysis for the official control of feedingstuffs. Consolidated Text produced by the CONSLEG system of the Office for Official Publications of the European Communities. AOAC 971.09. Pepsin Digestibility of Animal Protein Feeds. Ezquerra, J.M., Garcia-Carreno, F.L., Civera, R., Haard, N.F., 1997. pH-stat method to predict protein digestibility in white shrimp (Penaeus vannamei). Aquaculture. 157, 251 – 262. Hsu, H.W., Vavak, D.L., Satterlee, L.D., Miller, G.A., 1977. A multienzyme technique for estimating protein digestibility. Journal of Food Science. 42(5), 1269 – 1271. ISO 6655:1997. Animal feeding stuffs - Determination of soluble nitrogen content after treatment with pepsin in dilute hydrochloric acid. International Organization for Standardization. Geneva. Switzerland. Lazo, J. P., Romaire, R.P., Reigh, R.C., 1998. Evaluation of three in vitro enzyme assays for estimating protein digestibility in the Pacific white shrimp Penaeus vannamei. Journal of the World Aquaculture Society. 29 (4), 441 – 450. Miller, E.L., Bimbo, A.P., Walters, D.E., Barlow, S.M., Sheridan, B., 2002. Determination of nitrogen solubility in dilute pepsin hydrochloric acid solution of fishmeal: interlaboratory study. J AOAC Int. 85(6). 1374 – 1381. Pedersen, B., and Eggum, B.O., 1983. Prediction of protein digestibility by an in vitro enzymatic pH- stat procedure. Zeitschrift für Tierphysiologie Tierernährung und Futtermittelkunde. 49 (1-5), 265 – 277. Satterlee, L.D., Marshall, H.F., Tennyson, J.M., 1979. Measuring protein quality. Journal of the American Oil Chemists’ Society 56 (3), 103-109. Siccardi, III., A.J., 2006. Daily digestible protein and energy requirements for growth and maintenance of sub-adult Pacific white shrimp (Litopenaeus vannamei). A Dissertation for Doctor of Philosophy (Major subject: Nutrition). Texas A & M University. 130 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 ValidaTion oF RegRession models beTWeen IN VITRO and IN VIVO PRoTein digesTibiliTY oF Feeds FoR WhiTe leg shRimP (Litopenaeus vannamei) Nguyen Thi Lan Chi1*, Le Thi Lam1 ABSTRACT In Vietnam, aquafeed official controllers are currently seeking a tool to determine protein digest- ibility of feed. The initial results of the project “Study on methods evaluating protein digestibility of aquafeeds” which was conducted in Research Institute for Aquaculture No. 2 were six regression models describing the relationship between in vitro and in vivo protein digestibility. These predic- tive models displayed high determination coefficients (R2 > 0,9) as they were nonlinear regression and passed through zero point. However, it is impossible to obtain a sample with no protein di- gestibility in terms of both in vitro and in vivo. Therefore, we need to validate these models by six formulated feeds processed in laboratory. The results of study indicated that the predictive capacity of all models was low since they produced high residuals and high bias. This means we need to find other regression models without zero point. Keywords: protein digestibility, in vitro, in vivo, white leg shrimp feeds. Người phản biện: TS. Vũ Anh Tuấn Ngày nhận bài: 29/5/2015 Ngày thông qua phản biện: 10/6/2015 Ngày duyệt đăng: 15/6/2015 1 Centre for Fishery Post-harvest Technology Research Institute for Aquaculture No. 2 * Email: lanchiria2@yahoo.com.vn
File đính kèm:
- kiem_chung_mo_hinh_tuong_quan_giua_do_tieu_hoa_protein_in_vi.pdf