Khảo sát và theo dõi sự phát triển tuyến sinh dục của cá tỳ bà bướm beo (Sewellia elongate Roberts, 1998) trong điều kiện nuôi nhân tạo
TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát và theo dõi sự phát triển tuyến sinh dục của cá tỳ bà bướm beo (Sewellia elongate Roberts, 1998) được thu thập tại tỉnh Bình Định. Nghiên cứu gồm hai nội dung: (1) Khảo sát đàn cá trong tự nhiên để dự đoán mùa vụ sinh sản của cá, sử dụng phương pháp thu mẫu trực tiếp tại khu vực phân bố để ghi nhận các thông tin sơ cấp về sự xuất hiện của cá qua các mùa vụ trong một năm; (2) Thu mẫu cá chuyển về nuôi tại Thành phố Hồ Chí Minh để theo dõi sự phát triển tuyến sinh dục trong điều kiện nuôi nhân tạo. Kết quả ghi nhận ngoài tự nhiên cá sinh sản tập trung nhiều từ tháng 4 đến tháng 6 trong năm. Trong điều kiện nuôi vỗ, cỡ cá thành thục từ 4 - 5 cm, trọng lượng từ 3,0 – 5,0 g/con. Theo dõi sự phát triển tuyến sinh dục cho thấy, bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 8 cá đực có buồng tinh và cá cái có buồng trứng từ giai đoạn II trở đi. Trong đó buồng tinh phát triển ở giai đoạn III, IV và V, buồng trứng phát triển ở giai đoạn II đến V. Trứng và tinh trùng đã sẵn sàng tham gia sinh sản trong điều kiện nhân tạo
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát và theo dõi sự phát triển tuyến sinh dục của cá tỳ bà bướm beo (Sewellia elongate Roberts, 1998) trong điều kiện nuôi nhân tạo
sau và từ tháng 4 đến tháng 6 [3]. 2. Các yếu tố môi trường trong thuần dưỡng cá tỳ bà bướm beo Cá tỳ bà bướm beo là loài được khai thác ngoài tự nhiên từ các con suối ở miền Trung bộ nên trong quá trình thuần dưỡng cá các yếu tố môi trường bên ngoài rất quan trọng và ảnh hưởng đến sự sống, phát triển của cá nuôi. Sự biến đổi các yếu tố môi trường trong thời gian thuần dưỡng được thể hiện qua Bảng 2. Trong thời gian nuôi nhiệt độ nước luôn ổn định 22ºC, đây là nhiệt độ được ghi nhận trong quá trình khảo sát điều kiện tự nhiên nơi cá tỳ bà bướm beo phân bố tại tỉnh Bình Định. Cá tỳ bà bướm có thể được nuôi ở nhiệt độ từ 22 – 27ºC [4] và theo kết quả khảo sát ngoài tự nhiên nhiệt độ cá sống ở suối dao động từ 22ºC – 25ºC [5]. Dựa vào luận cứ trên thì nhiệt độ trong quá trính bố trí thí nghiệm thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cá tỳ bà bướm trong điều kiện nuôi nhân tạo. Bảng 2. Biến động các yếu tố chất lượng nước trong thuần dưỡng cá tỳ bà bướm beo Đợt thuần dưỡng Chỉ tiêu Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Nhiệt độ (oC) 22,0 ± 0,0 22,0 ± 0,0 22,0 ± 0,0 pH 6,25 ± 0,25 6,12 ± 0,24 6,10 ± 0,20 DO (mg/L) 5,09 ± 0,10 5,11 ± 0,16 5,14 ± 0,16 Độ cứng (mgCaCO3/L) 53,7 ± 0,00 53,7 ± 0,00 53,7 ± 0,00 NO2 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0 NH3 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0 Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Kết quả ở Bảng 2 cho thấy không có sự hiện diện của NO2 và NH3 trong suốt thời gian thí nghiệm. Trong điều kiện sục khí liên tục và thiết kế hệ thống lọc, hàm lượng oxy hòa tan trong các bể nuôi tương đối cao dao động trong khoảng 5,09 - 5,14 mg/L. Hàm lượng oxy hoà tan thích hợp cho hầu hết các loại cá nuôi là trên 3 mg/L cá có thể sống bình thường [8]. Trong quá trình tiến hành thí nghiệm tất cả các bể cá đều được bố trí trong nhà và được thay nước định kỳ cùng một nguồn nước nên kết quả theo dõi pH nước giữa các đợt thuần dưỡng tương đối ổn định, dao động trong khoảng 6,10 – 6,25. Nhìn chung các yếu tố môi trường đều nằm trong khoảng thích hợp với sự phát triển của cá. 3. Tỉ lệ sống của cá tỳ bà bướm beo khi kết thúc thuần dưỡng Tỉ lệ sống của cá tỳ bà bướm trong thuần dưỡng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện môi trường sống, thức ăn, chất lượng đàn cá thu thập. Tỉ lệ sống cá tỳ bà bướm qua ba đợt thuần dưỡng được thể hiện ở Bảng 3. 64 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 Tỉ lệ sống của cá trong điều kiện thuần dưỡng tại Tp.HCM có sự khác nhau trong 3. Ngoài tự nhiên, cá tỳ bà bướm sống bám trên các tảng đá nơi nước chảy xiết với hàm lượng oxy hòa tan cao. Trong điều kiện nhân tạo, cá được nuôi trong bể kính với thiết kế hệ thống lọc để tạo dòng chảy và sục khí mạnh mô phỏng môi trường tự nhiên cá sống. Tuy nhiên, cá ban đầu chưa thích nghi được điều kiện môi trường sống nên đây có thể là lý do ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá trong quá trình thuần dưỡng. Đa số các loài cá cảnh khai thác từ tự nhiên thì môi trường sống là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sống của cá trong quá trình thuần dưỡng. Kết quả nghiên cứu trên mẫu cá neon Việt Nam thu thập tại Huế có tỉ lệ sống sau 30 ngày thuần dưỡng tại Tp.HCM dao động trong khoảng 39,6 – 86,8%; cá thủy tinh có tỉ lệ sống sau thuần dưỡng từ 63,3 – 75% [6]. Kết quả ghi nhận về tỉ lệ sống của một số loài cá tự nhiên khai thác làm cá cảnh xuất khẩu sau thuần dưỡng trong điều kiện nhân tạo là 70% và màu sắc cá giống như ngoài tự nhiên cá [7]. Nhìn chung tỉ lệ sống cá tỳ bà bướm sau thuần dưỡng trong nghiên cứu tương đương với kết quả nghiên cứu trước đây về khai thác thuần dưỡng cá tự nhiên làm cá cảnh tại TP.HCM. 4. Kết quả nghiên cứu sự thành thục của cá trong điều kiện nuôi nhân tạo 4.1. Phân biệt giới tính cá tỳ bà bướm beo Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tường Anh năm 2004 [2], có ba nguyên tắc chính để phân biệt cá đực và cá cái, đó là sự khác nhau của đặc điểm sinh dục chính (tức là đặc điểm sinh dục sơ cấp), đặc điểm sinh dục phụ (đặc điểm sinh dục thứ cấp) và đặc điểm hình thái do gen nằm trên nhiễm sắc thể giới tính quy định. Cá tỳ bà bướm là loài có thể phân biệt giới tính bằng hình thái bên ngoài. Quan sát và kết hợp giải phẫu tác giả đã phát hiện đặc điểm về hình thái trên đầu có sự khác biệt giữa cá đực và cá cái: Cá tỳ bà bướm beo đực có phần phía trước đầu nhọn, trong khi đó phần này ở con cái có dạng tròn hơn. Bảng 3. Tỉ lệ sống của cá tỳ bà bướm Đợt thuần dưỡng Chỉ tiêu Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3 Tổng số cá ban đầu (con) 1.200 800 500 Tỉ lệ sống sau 15 ngày (%) 73,25 79,63 77,00 Tỉ lệ sống sau 30 ngày (%) 71,33 74,13 76,40 Hình 2. Phân biệt cá tỳ bà bướm beo đực và cái. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 65 4.2. Kích cỡ và mùa vụ thành thục cá tỳ bà bướm beo Bảng 4. Kích cỡ cá và các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của cá tỳ bà bướm beo Cá đực Cá cái Chiều dài (cm) Trọng lượng (g) GĐ phát triển tuyến sinh dục Chiều dài (cm) Trọng lượng (g) GĐ phát triển tuyến sinh dục 6,0 5,0 III 6,0 5,2 I - IV 5,0 3,5 IV 4,0 2,8 II 5,0 3,6 IV 5,0 3,6 II 5,0 3,6 IV 5,0 3,7 II 5,0 3,7 IV 5,0 3,6 II 5,0 3,6 IV 4,2 3,2 V 5,0 3,5 IV 4,0 3,0 V 5,0 3,4 IV 4,1 3,0 V 5,0 3,5 IV 5,2 3,6 III 4,2 3,2 III 4,8 3,2 III 4,0 3,0 III 5,1 3,5 II 4,0 3,0 III 4,0 3,1 III 4,5 3,1 III 4,5 3,1 III 4,0 3,0 III - - - 4,0 2,8 III - - - 4,0 3,0 V - - - 4,2 3,1 V - - - Tuổi thành thục của cá được tính từ lúc cá nở cho đến khi mang sản phẩm sinh dục lần đầu, tuổi thành thục của cá khác nhau tùy loài. Hiện chưa có tài liệu xác định tuổi thành thục của cá tỳ bà bướm. Nhưng theo kết quả khảo sát thực địa và quan sát cá nuôi vỗ trong bể kính chúng tôi ghi nhận, cỡ cá thành thục là 4 - 5 cm, trọng lượng dao động 3,0 – 5,0 g/con (Bảng 4). Chiều dài và giai đoạn thành thục sinh dục của cá có mối quan liên quan chặt chẽ với nhau. Cá chỉ thành thục khi đạt đến một chiều dài nhất định, do đó xác định sự thành thục của cá theo chiều dài là một trong các chỉ tiêu đánh giá mức độ thành thục của một quần thể cá. Cá nuôi vỗ từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2018, từ tháng nuôi thứ 3 mỗi tháng bắt ngẫu nhiên 5 cá thể để phân tích sự phát triển tuyến sinh dục của cá. Kết quả ghi nhận, cá đực có buồng tinh và cá cái có buồng trứng từ giai đoạn II trở đi, bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 8. Trong thời gian nuôi vỗ buồng tinh phát triển ở giai đoạn III, IV và V, buồng trứng phát triển ở giai đoạn II đến V. Như vậy trứng và tinh trùng đã sẵn sàng tham gia sinh sản nhân tạo, bên cạnh đó trong quá trình bố trí thí nghiệm chúng tôi cũng đã ghi nhận cá con xuất hiện trong bể kính. Căn cứ vào kết quả trên, chúng tôi cho rằng khi điều chỉnh các yếu tố sinh thái thích hợp thì cá tỳ bà bướm hoàn toàn có khả năng sinh sản trong điều kiện nhân tạo. 4.3. Đặc điểm tuyến sinh dục của cá tỳ bà bướm beo Trong quá trình phát triển tuyến sinh dục của cá tỳ bà bướm beo cũng trải qua các giai đoạn phát triển tương tự như quá trình thành thục của tuyến sinh dục các loài cá nói chung. Đặc điểm hình thái tuyến sinh dục của cá tỳ bà bướm beo được mô tả dựa vào kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tường Anh và Phạm Quốc Hùng năm 2016 [2]. 66 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 4.3.1. Tuyến sinh dục cá cái Giai đoạn I: Tế bào sinh dục là các nguyên bào và các noãn bào. Noãn bào có nhiều góc cạnh, kích thước rất nhỏ tế bào chất ưa kiềm nên bắt màu tím của Hematoxylin mạnh, nhân ưa kiềm yếu nên bắt màu nhạt, số tiểu hạch ít. Ở giai đoạn I, tế bào sinh dục là những noãn nguyên bào đang lớn lên về tế bào chất (sinh trưởng lần I). Giai đoạn II: Noãn bào có kích thước khá lớn, có thể phân biệt được chúng bằng mắt thường. Tế bào chất không xuất hiện noãn hoàng. Nhân tròn rõ, ưa kiềm và bắt màu nhạt có 6–8 tiểu hạnh, các tiểu hạnh di chuyển dần ra phía ngoài màng nhân. Noãn nguyên bào giai đoạn II là những tế bào đã kết thúc sinh trưởng về tế bào chất. Giai đoạn 3: Tế bào trứng chuyển sang giai đoạn sinh trưởng chất dinh dưỡng, noãn bào bắt đầu giai đoạn tích lũy, xuất hiện nhiều không bào (không bắt màu), nhân lớn bắt màu tím nhạt. Kích thước noãn hoàng căng tròn. Tế bào chất vẫn còn ưa kiềm nhưng rất yếu, noãn hoàng xuất hiện nhiều bắt màu hồng của eosin rất rõ, các hạt noãn hoàng to nằm phía ngoài các hạt nhỏ nằm sát nhân. Noãn bào giai đoạn III là những noãn bào đang tạo noãn hoàng (sinh trưởng lần II), có nang trứng bao quanh, nhân noãn bào được gọi là túi mầm còn ở trung tâm noãn bào. Giai đoạn 4: Kích thước của noãn bào gia tăng rõ. Kết thúc thời kỳ lớn nguyên sinh noãn hoàng, số tiểu hạnh trong nhân giảm và từ từ tan biến, kích thước noãn bào lúc này đạt cực đại. Noãn bào giai đoạn IV kết thúc sự tạo noãn hoàng, túi mầm đang trong quá trình dịch chuyển ra ngoài biên. Dưới kính lúp hoặc bằng mắt thường noãn bào được coi là có nhân lệch tâm. Giai đoạn 5: Noãn hoàng kết thành khối, các tiểu hạch hoàn toàn biến mất. Noãn bào giai đoạn V là noãn bào chín và rụng trứng. Giai đoạn 6: Màng tế bào teo, nguyên sinh chất và không bào tan biến, vật chất sinh sản thoái hóa kết thúc giai đoạn phát triển tế bào trứng. GĐ I GĐ II GĐ III GĐ IV GĐ V Hình 3. Các giai đoạn phát triển của tế bào trứng qua quan sát mô học (độ phóng đại X10). 4.3.2. Tuyến sinh dục cá đực Giai đoạn I: tuyến sinh dục là những giải mỏng, trong suốt, chưa phân biệt được đực cái. Mạch máu còn kém phát triển, tuyến sinh dục không màu, hơi vàng hay hơi xám. Trong số những tế bào sinh dục của tinh sào chỉ thấy có những tinh nguyên bào lớn riêng biệt. Nhiều tế bào lớn này tạo cho tuyến sinh dục trong suốt ở giai đoạn này. Tình trạng tinh sào như vậy là đặc trưng cho cá chưa thành thục. Giai đoạn II: đặc trưng của giai đoạn này là sự có mặt của những tế bào sinh dục ở giai đoạn đầu của quá trình tạo tinh trong trạng thái sinh sôi. Kết quả của sự sinh sôi các tế bào trong tinh sào là tinh sào lớn lên về kích thước, không trong suốt mà trở nên đục. Nó có dạng những giải tròn hay mảnh, thường có màu xám hay hồng rất nhạt. Giai đoạn III: nét đặc trưng là mọi giai đoạn của sự tạo tinh xảy ra mạnh: lớn lên, chín và trưởng thành. Trong tinh sào có tinh nguyên bào, tinh bào cấp I, cấp II và tinh tử. Cuối giai đoạn này xuất hiện những tinh trùng chín muồi. Ở giai đoạn này tinh sào tăng lên về thể tích, ở đầu giai đoạn màu hồng nhạt, xám, vào cuối giai đoạn màu hơi vàng, trắng. Khi cắt ngang tinh sào bằng lưỡi lam thì mép của lát cắt không đọng nước mà cạnh lát cắt vẫn sắc. Vào đầu giai đoạn, lưỡi dao sau khi cắt vẫn sạch; vào cuối giai đoạn, đã có nhưng còn ít chất nước hơi trắng đục. Đó là dịch chứa tinh trùng. Giai đoạn IV: kết thúc quá trình tạo tinh. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 67 Trong các ống sinh tinh của tinh sào chỉ có những tinh trùng chín muồi đi ra khỏi các tinh nang. Tinh sào có màu trắng sữa. Khi cắt thì lưỡi lam dính chất dịch màu trắng trên lát cắt, tinh dịch đọng thành giọt, mép lát cắt tròn chứ không sắc như ở giai đoạn trước. Lúc này tinh trùng dễ dàng theo ống dẫn ra ngoài lỗ sinh dục, khi vuốt bụng cá ở cuối giai đoạn IV tinh dịch đặc như sữa thoát ra ngoài. Giai đoạn V: là giai đoạn đang sinh sản của cá đực. Sản phẩm sinh dục chảy ra ngoài, GĐ I GĐ II GĐ III GĐ IV GĐ V không cần mổ cá cũng xác định được. Ở giai đoạn này tinh thanh được tạo ra làm loãng khối tinh trùng và làm cho chúng dễ chảy ra. Vuốt nhẹ hay uốn cong cá thì ở lỗ sinh dục có tinh dịch chảy ra như sữa loãng. Giai đoạn VI: là giai đoạn sau khi sinh sản, tinh dịch chảy ra hết, tinh sào nhỏ lại và co lại có dạng những giải mỏng, mềm nhão. Mạch máu mở rộng, tinh sào màu hồng hay nâu. Nếu cắt tinh sào hay vuốt bụng cá thấy có ít nước đục loãng, có thể có màu hơi vàng. Hình 4. Các giai đoạn phát triển của tinh sào qua quan sát mô học (độ phóng đại X10). IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Kết quả nghiên cứu ghi nhận: Ngoài tự nhiên cá tỳ bà bướm có thể sinh sản quanh năm nhưng tập trung nhiều nhất vào khoảng thời gian từ tháng 4 – 6 trong năm. Trong điều kiện nuôi vỗ, cỡ cá thành thục là 4 - 5cm, trọng lượng dao động 3,0 – 5,0 g/con. Theo dõi sự phát triển tuyến sinh dục cho thấy cá đực có buồng tinh và cá cái có buồng trứng từ giai đoạn II trở đi, bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 8. Trong đó buồng tinh phát triển ở giai đoạn III, IV và V, buồng trứng phát triển ở giai đoạn II đến V. Trứng và tinh trùng đã sẵn sàng tham gia sinh sản trong điều kiện nhân tạo. 2. Kiến nghị Tiếp tục nghiên cứu các chỉ tiêu môi trường, thức ăn trong quá trình nuôi vỗ cá bố mẹ để kích thích cá tỳ bà bướm beo sinh sản trong điều kiện nuôi nhân tạo. Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao đã hỗ trợ kinh phí cho thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Tường Anh và Phạm Quốc Hùng, 2016. “Cơ sở ứng dụng nội tiết học sinh sản cá”. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 318 trang. 2. Nguyễn Tường Anh, 2004. “Kỹ thuật sản xuất giống một số loài cá nuôi (Cá trê, cá tra, sặc rằn, thát lát, tai tượng, rô phi toàn đực)”. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh, 102 trang. 68 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 3. Võ Điều, Trần Văn Việt, Phan Đỗ Dạ Thảo 2019. “Định danh thành phần loài cá tỳ bà bướm (Sewellia spp.) phân bố ở thừa thiên huế dựa trên đặc điểm hình thái và DNA mã vạch”. Tạp chí Khoa học đại học Huế, 3C, trang 1 -12. 4. Vũ Cẩm Lương, 2008. Cá cảnh nước ngọt. NXB Nông Nghiệp. 263 trang. 5. Nguyễn Thị Kim Liên, Trương Thị Thúy Hằng và Ngô Khánh Duy, 2019. “Điều tra, thu thập và định danh các loài cá tỳ bà bướm (Sewellia spp.) tại một số tỉnh miền Trung”. Tạp chí nghề cá sông Cửu Long, số 14 tháng 10/2019, trang 84 – 96. 6. Trần Bùi Thị Ngọc Lê, 2016. “Nghiên cứu sinh sản cá neon Việt Nam (Tanichthys micagemmae Freyhof & Herder, 2001) và bước đầu nghiên cứu sinh học sinh sản cá thủy tinh (Kryptopterus bicirrrhis Valenciennes, 1840)”. Báo cáo nghiệm thu. 7. Lê Thị Thanh Muốn và Nguyễn Khoa Diệu Thu, 1997. “Khai thác, thuần dưỡng và sinh sản một số loài cá cảnh tự nhiên làm cá cảnh xuất khẩu”. Báo cáo nghiệm thu. 8. Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất cá giống. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh. 215 trang. Tiếng anh 9. Hinton, DE. 1990. “Methods for fi sh Biology”. AmericanFisheries Society pp: 191 – 213. 10. Roberts, T.R. 1998. Systematic revision of the Balitorid loach genus Sewellia of Vietnam and laos, with diagnoses of four new species. Raffl es Bulletin of Zoology 46(2): 271-288.
File đính kèm:
- khao_sat_va_theo_doi_su_phat_trien_tuyen_sinh_duc_cua_ca_ty.pdf