Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới

Trong ngành hàng hải, bám bẩn sinh học (hà bám) lên thân vỏ tàu thuyền dưới

vạch mớm nước làm tăng tiêu hao nhiên liệu, giảm hiệu suất điều khiển và tăng chi

phí bảo dưỡng kỹ thuật [1, 2]. Đối với các đường ống nước biển (ví dụ như hệ thống

làm mát), hà bám còn gây giảm kích thước đường ống, tăng độ nhám bề mặt, gây tắc

cục bộ tại cửa van, chỗ thắt cổ chai hoặc góc ống dẫn tới suy giảm lưu lượng theo

thiết kế [3]. Hà bám cũng gây ra ăn mòn vi sinh cho thép do các loại vi khuẩn khử

sunphat, oxy hóa lưu huỳnh, oxy sắt-mangan. [4].

Quá trình hình thành quần thể sinh vật bám bẩn trên bề mặt vật liệu phụ thuộc

2 yếu tố cấu thành chính: số lượng các ấu trùng tiếp xúc với bề mặt và điều kiện cho

chúng làm tổ và phát triển [5]. Một số phương pháp chống hà cho đường ống có thể

kể đến như: ozon [6], clorin hóa [7, 8], siêu âm [9]. nhằm hạn chế hoặc/và một

trong hai yếu tố trên. Nhiều báo cáo đã kết luận rằng, quá trình hình thành quần thể

bám bẩn từ màng vi sinh (micro-organisms) đến các loài kích thước lớn (macroorganisms) diễn ra trong 4 giai đoạn cơ bản và lớp màng vi sinh vật tạo ra môi

trường dinh dưỡng và độ bám dính bề mặt cho nhóm sinh vật có kích thước lớn hơn

sinh sống và phát triển [10-13]

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới trang 1

Trang 1

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới trang 2

Trang 2

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới trang 3

Trang 3

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới trang 4

Trang 4

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới trang 5

Trang 5

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới trang 6

Trang 6

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 960
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới

Kết quả ứng dụng ban đầu thiết bị chống hà bám trong môi trường biển nhiệt đới
ờng dinh dưỡng và độ bám dính bề mặt cho nhóm sinh vật có kích thước lớn hơn 
sinh sống và phát triển [10-13]. 
Với mục đích hạn chế ăn mòn vi sinh cho thép, gần đây công nghệ điện hóa sử 
dụng dòng điện áp đặt với điện cực anode đồng đã được quan tâm nghiên cứu 
(Impressed Current Anti Fouling, viết tắt ICAF). H. Pratikno và cộng sự sử dụng 
phương pháp này với các chế độ điện phân khác nhau trong nước biển nhân tạo được 
cấy các chủng vi sinh điển hình [4, 14, 15]. Kết quả cho thấy, hiệu quả tiêu diệt các 
chủng vi sinh vật biển rất cao. Thời gian và dòng điện phân tăng dẫn tới tăng nồng 
độ ion đồng, tăng phần trăm tế bào vi sinh bị tiêu diệt [4, 14]. Mặt khác, ở chế độ 
dòng điện phân cao, nồng độ đồng lại giảm theo thời gian dài và theo từng chủng vi 
khuẩn thử nghiệm [15]. Ở trong nước, Nguyễn Thị Lê Hiền và cộng sự đã nghiên 
cứu áp dụng công nghệ này để chống bám cặn và ăn mòn cũng trong điều kiện nước 
biển nhân tạo có so sánh với [16]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở mật độ dòng 1,25 
mA/cm2 đối với anode đồng, hệ thống làm mát bằng nước biển có thể được bảo vệ 
hiệu quả chống lại sự đóng cặn của các vi sinh vật biển. 
Bài báo trình bày đặc tính điện hóa của điện cực đồng và hiệu quả chống hà 
bám của thiết bị chống hà (Marine Growth Prevent System) trong mô hình nước 
biển thực ở điều kiện tự nhiên có tính đến yếu tố dòng chảy. 
 Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 108
2. THỰC NGHIỆM 
2.1. Đối tượng thử nghiệm 
Thiết bị chống hà nhập khẩu từ Công ty TNHH KC-Cathodic Pro Anti-
fouling, Hàn Quốc. Thiết bị phù hợp với “Article 95” của Cơ quan hóa chất châu âu 
quy định về danh sách các nhà cung cấp dịch vụ và hoạt chất được áp dụng. Thiết bị 
thuộc kiểu PT 11- Hoạt chất hỗ trợ hệ thống làm mát bằng chất lỏng. 
Thiết bị và mô hình thử nghiệm như hình 1, gồm: 
- Điện cực đồng (EC No:231-159-6, CAS No: 7440-50-8; độ tinh khiết >99%) 
hình trụ tròn (ϕ 82,25 x 400 mm); 
- Bảng điều khiển cho phép áp dòng điện ngoài lên điện cực: 0,1  2 A; 
Hình 1. Bảng điều khiển, điện cực đồng và mô hình thử nghiệm hiện trường 
- Bơm chìm: Đạt max 5,5 m3/giờ; Lưu lượng vào từng bể: 0,86 m3/giờ. 
- Hai bể composite, dung tích 200 L, một bể đặt điện cực đồng (bể chống hà) 
và một bể đối chứng. 
- Các tấm kiểm tra để thử nghiệm mức độ bám bẩn sinh học trong hai bể và 
trong nước biển được chuẩn bị theo bộ TCVN 8785-1:2011. 
- Hệ thống được đặt chế độ chạy tự động để đạt 8 giờ/ngày; Hệ thống sử dụng 
điện năng lượng mặt trời, chế độ chạy gián đoạn, tập trung nhiều hơn vào thời gian 
có nắng. Việc lựa chọn này cũng phù hợp với nghiên cứu cho rằng, hà bám và phát 
triển nhiều hơn vào ban ngày so với ban đêm [17, 18]. 
- Dòng áp đặt của thiết bị để đạt 1,2 mA/cm2; 
Nguyên tắc hoạt động: Nước biển từ bơm chìm được dẫn đều vào hai bể 
composite rồi theo hệ thống đường ống xả ra biển. 
2.2. Các phương pháp nghiên cứu 
Sử dụng phương pháp đo thế mạch hở (OCP) theo thời gian, đo đường cong 
phân cực (E-I) để nghiên cứu đặc tính của anode đồng. Thí nghiệm được thực hiện 
trên AutoLab PGSTAT 204N với điện cực đối Pt, điện cực so sánh Ag/AgCl, đo 
trong nước biển tự nhiên; 
 Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 109 
Mật độ dòng (0,6; 1,2; 2,3 mA/cm2) được áp vào điện cực đồng để khảo sát 
nồng độ ion đồng đạt được. Điện cực đối là mẫu thép Ct3 (50 x 100 x 1 mm) được 
chuẩn bị bề mặt theo ISO 8407-2009. 
Nồng độ ion đồng được xác định bằng thiết bị quang phổ nguồn plasma cảm 
ứng cao tần kết nối khối phổ ICP-MS. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Đặc tính điện hóa của điện cực đồng trong nước biển tự nhiên 
 Thế mạch hở (hình bên trái) và giản đồ E-t ở các mật độ dòng khác nhau 
(bên phải) của điện cực đồng trong nước biển tự nhiên thể hiện trên hình 2. Đồ thị 
cho thấy, giá trị này có sự thay đổi nhất định theo thời gian nhưng ổn định trong 
khoảng từ -165 đến -155 mV. 
Hình 2. Thế mạch hở và giản đồ E-t của điện cực đồng trong nước biển tự nhiên 
 Kết quả từ giản đồ E-t cho thấy, tương ứng với mỗi giá trị mật độ dòng điện 
điện cực điện thế xác lập một giá trị trị ổn định, tỷ lệ thuận với giá trị mật độ dòng 
điện. Có thể thấy, tại các giá trị mật độ dòng điện 0,6; 1,2 mA/cm2 các giá trị điện 
thế thu được tiệm cận với thế ăn mòn của đồng. Điều này cho thấy ở các mật độ 
dòng này, hiệu quả hòa tan đồng sẽ rất cao. Ngược lại, mật độ dòng điện 2,3 
mA/cm2 nằm cách xa thế ăn mòn của đồng nên dễ dẫn tới phản ứng phụ là điện phân 
nước. Như vậy, có thể dự đoán, khi áp mật độ dòng điện tại giá trị 2,3 mA/cm2 lên 
điện cực anode đồng, nồng độ ion đồng giải phóng có thể giảm so với tại 0,6; 1,2 
mA/cm2. Kết quả làm giảm hiệu suất của hệ (tốn điện, không hiệu quả). 
 Sự phụ thuộc của nồng độ ion đồng tạo ra ở các mật độ dòng khác nhau trong 
những khoảng thời gian khác nhau thể hiện trên hình 3. Tốc độ phản ứng quá trình 
hòa tan đồng tại điện cực đồng phụ thuộc vào cường độ dòng điện áp đặt và diện 
tích điện cực. Từ đồ thị ta thấy, ở các khoảng thời gian khác nhau, nồng độ ion đồng 
đạt được đều tăng khi tăng mật độ dòng từ 0,6 lên 1,2 mA/cm2. Điều này có thể 
được giải thích trên cơ sở tăng tính hoạt hóa bề mặt mẫu đồng, hay nói cách khác, 
mật động dòng tăng làm tăng khả năng trao đổi điện tích giữa bề mặt mẫu đồng và 
nước biển. Kết quả là nồng độ ion đồng được giải phóng cũng tăng lên. Tuy nhiên, 
tiếp tục tăng mật độ dòng áp đặt có thể không làm tăng nồng độ ion đồng mà thậm 
chí còn giảm. Điều này có thể được giải thích từ giản đồ E-t (hình 2). 
 Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 110
Hình 3. Biến thiên nồng độ đồng theo mật độ dòng áp đặt 
 Từ số liệu thực nghiệm về đặc tính điện hóa của điệc cực đồng của thiết bị, 
dải mật độ dòng áp đặt hiệu quả nằm trong khoảng từ từ 0,6 lên 1,2 mA/cm2. Kết 
quả này là cơ sở để thiết lập chế độ vận hành của thiết bị chống hà cho đường ống 
thử nghiệm mô phỏng tại hiện trường. Kết quả nghiên cứu của H. Pratikno và cộng 
sự đều cho thấy hiệu quả tiêu diệt một số chủng vi sinh rất cao trong dải mật độ 
dòng từ 0,6 đến 2,2 mA/cm2 chỉ dưới 10 phút [4, 14, 15]. Nguyễn Thị Lê Hiền và 
cộng sự cũng chứng tỏ hiệu quả chống bám cặn trong 2 tuần với mật độ dòng áp đặt 
lên điện cực đồng là 1,25 mA/cm2. Tuy nhiên, từ mô hình thử nghiệm trong nước 
biển tự nhiên, vi sinh vật bám bẩn có thể lên tới 2000 loài [19], thậm chí đến 4000 
loài [20]. Từ đó, mật độ dòng điện 1,2 mA/cm2 được lựa chọn trước hết để thử 
nghiệm hiệu quả chống hà trong điều kiện có dòng chảy của thiết bị theo thời gian 
dài tại hiện trường làm cơ sở cho việc điều chỉnh chế độ hiệu quả hơn và với các lưu 
lượng nước khác nhau cho từng đối tượng đường ống. 
3.2. Hiệu quả chống hà bám của thiết bị 
Ảnh chụp đại diện các mẫu thử nghiệm hiện trường thể hiện trên hình 4. 
Hình 4. Các mẫu sau 55 ngày thử nghiệm tự nhiên trong các điều kiện khác nhau 
 a - Mẫu thử nghiệm trong nước biển tự nhiên; b - Mẫu thử nghiệm trong bể 
đối chứng; c - Mẫu thử nghiệm trong bể chống hà; d - Mẫu thử nghiệm trong nước 
biển tự nhiên (28 ngày) rồi đưa vào trong bể chống hà. 
 a) b) c) d) 
 Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 111 
Quan trắc các mẫu sau 55 ngày thử nghiệm cho thấy, mẫu trong nước biển tự 
nhiên và mẫu trong bể đối chứng đã bị hà bám và phát triển dày đặc trên bề mặt. Kết 
quả này khẳng định bể đối chứng đã tạo ra được môi trường cho hà bám và phát 
triển. Trạng thái bề mặt của 2 nhóm mẫu này cũng có sự khác biệt nhất định. Lớp 
màng vi sinh trên bề mặt mẫu thử nghiệm tự nhiên vẫn nhiều hơn so với trên bề mặt 
của mẫu trong bể đối chứng. Kết quả này có thể giải thích do điều kiện tự nhiên tạo 
ra môi trường thuận lợi nhất cho quần thể sinh vật bám và phát triển. Ngoài ra, có 
thể do dòng chảy mà bề mặt của mẫu trong bể đối chứng dễ bị rửa trôi nên nhìn 
cũng “sạch” hơn [5, 21]. Không có bám bẩn macro trên bề mặt mẫu trong bể thử 
nghiệm chống hà (hình 4c) và không thấy sự tăng trưởng của các cá thể bám bẩn 
macro trên bề mặt mẫu (hình 4d) cho thấy hiệu quả chống hà của thiết bị. Trạng thái 
bề mặt của cả 2 mẫu tương tự như trước khi đưa vào bể chống hà. Quan trắc các 
mẫu cũng cho thấy có lớp màng màu xanh trên bề mặt. Ion đồng được biết đến như 
là độc tố ứng dụng phổ biến trong các loại sơn chống hà [22, 23]. Gần đây, đồng 
cũng được ứng dụng ở dạng ion trong nước nhằm tiêu diệt số lượng lớn các chủng vi 
sinh biển trong quần thể bám bẩn [4, 14, 15]. Như vậy, hiệu quả chống hà của thiết 
bị thử nghiệm có thể đến từ hoặc/và hai nguyên nhân sau. Thứ nhất, ion đồng từ 
điện cực hòa vào nước biển khi nước lưu thông, sẽ tiếp xúc và tiêu diệt ấu trùng. Kết 
quả là hạn chế yếu tố thứ nhất cấu thành nên quần thể bám bẩn sinh học [5]. Thứ 
hai, ion đồng kết hợp với các gốc sunphat, gốc cacbonat trong nước biển để hình 
thành lên hợp chất của Cu2+ bám trên bề mặt mẫu. Hợp chất này giải thích cho lớp 
màng màu xanh trên bề mặt mẫu. Sự hình thành lớp màng này hạn chế yếu tố thứ 
hai cấu thành nên bám bẩn sinh học [5]. Tại Trạm nghiên cứu thử nghiệm biển, bám 
bẩn sinh học được báo cáo hình thành hàng tháng, nhiều hơn cả vào mùa khô với 
mức độ phủ lên đến 35 % [24]. Mẫu thử nghiệm (hình 4d) được đặt trong nước biển 
tự nhiên 28 ngày đã hình thành quần thể bám bẩn macro trên bề mặt. Tuy nhiên sau 
đó mẫu được đặt vào bể chống hà cho đến 55 ngày mà không có sự phát triển thêm 
về quần thể bám bẩn. Thực tế có thể thấy, quần thể bám bẩn sinh học được hình 
thành 28 ngày đó đã “chết”. Điều này cũng khẳng định ion đồng có thể tiêu diệt 
ngay cả các cá thể bám bẩn macro. 
4. KẾT LUẬN 
- Mật độ dòng diện áp đặt lên điện cực đồng quyết định đến khả năng điện 
phân ion đồng vào trong nước biển. Với điện cực đồng thử nghiệm, trong dải mật độ 
dòng từ 0,6 lên 1,2 mA/cm2, nồng độ đồng trong nước biển tỷ lệ thuận với dòng áp 
đặt. Đây là cơ sở để thiết lập chế độ áp làm việc cho hệ thống trong điều kiện thực 
- Thiết bị chống hà M.G.P.S. có thể ứng dụng hiệu quả cho hệ thống làm mát 
trên tàu biển. Tuy nhiên cần phải tiếp tục thử nghiệm để xác định nồng độ ion đồng 
tối thiểu đủ để chống hà trong điều kiện khai thác thực tế. 
 Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. M.P. Schultz, Effects of coating roughness and biofouling on ship resistance 
and powering., Biofouling, 2007, 23(5-6):331-41. 
2. M.P. Schultz, J. a Bendick, E.R. Holm and W.M. Hertel, Economic impact of 
biofouling on a naval surface ship., Biofouling, 2011, 27(1):87-98. 
3. Woods Hole Oceanographic Institute (WHOI), The Effects of Fouling, Marine 
Fouling and its Prevention, 1952, 580:3-19. 
4. H. Pratikno, H.S. Titah, Handayanu and G.R. Mahardhika, Impressed Current 
Anti Fouling (ICAF) to Reduce Population of Chlorella Vulgaris Cause Bio 
Corrosion on AH36 Steel in Marine Environment, E3S Web of Conferences, 
2019, 125:10-13. 
5. WHOI (Woods Hole Oceanographic Institute), Factors Influencing the 
Attachment and Adherence of Fouling Organisms (Marine Fouling and Its 
Prevention), George Banta Publishing Co., 1952, 580:230-240. 
6. Y. Ikegami and K. Urata, Antifouling Technology for Seawater Intake Pipes of 
OTEC using Ozonation, 2006, 4:337-342. 
7. S. Rajagopal, G. Van Der Velde, M. Van Der Gaag and H.A. Jenner, How 
effective is intermittent chlorination to control adult mussel fouling in cooling 
water systems?, Water Research, 2003, 37(2):329-338. 
8. H.J.G. Polman, M.C.M. Bruijs, F. Calneggia and H.A. Jenner, Optimisation 
chlorination strategy cooling water system Verve Energy ’ s Cockburn and 
Kwinana power plants Optimisation chlorination strategy cooling water 
system Verve Energy ’ s Cockburn and Kwinana power plants, 2008, tr. 1-10. 
9. S.F. Guo et al., Effect of ultrasound on cyprids and juvenile barnacles, 
Biofouling, 2011, 27(2):185-192. 
10. S. Abarzua and S. Jakubowski, Biotechnological investigation for the 
prevention of biofouling. 1. Biological and biochemical principles for the 
prevention of biofouling, Marine Ecology Progress Series, 1995, 123(1-3):301. 
11. Maki J., Biofouling in the marine environment. In: Bitton H, editor. 
Encyclopedia of environmental microbiology. New York: Wiley & Sons, 2002, 
tr. 610-619. 
12. D.I. Walker, Biofouling and its control for in situ lab-on-a-ship marine 
environmental sensors, Thesis Doctor of Philosophy, University of 
Southampton, 2012. 
13. P. Taylor et al., Biofouling : The Journal of Bioadhesion and Biofilm Review - 
Interactions between diatoms and stainless steel : focus on biofouling and 
biocorrosion, Biofouling, 2012, tr.37-41. 
 Thông tin khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 21, 12-2020 113 
14. H. Pratikno, H. Sulistiyaning Titah and M. Danesto Rizky Mauludin, System 
Impressed Current Anti Fouling (ICAF) against micro fouling (Bacteria) on 
ship’s cooling system, MATEC Web of Conferences, 2018. 
15. H. Pratikno, H.S. Titah, Handayanu, Reduction of microalgae by copper ion in 
impressed current anti fouling system for biofouling prevention in saline 
environment, Journal of Ecological Engineering, 2020, 21(2):80-88. 
16. Nguyễn Thị Lê Hiền, Lê Thị Hồng Giang, Nguyễn Xuân Trường và Phan 
Công Thành, Nghiên cứu đánh giá hiệu quả công nghệ điện hóa nhằm chống 
bám cặn và chống ăn mòn cho hệ thống làm mát bằng nước biển, Công nghệ - 
Công trình dầu khí, 2016, 1:74-85. 
17. J.H. Gregg, Background illumination as a factor in the attachment of barnacle 
cyprids, Biological Bulletin, 1945, 88(1):44-49. 
18. C.M. Weiss, The Effect of Illumination and Stage of Tide on the Attachment of 
Barnacle Cyprids, Biological Bulletin, 1947, 93(3):240-249. 
19. WHOI (Woods Hole Oceanographic Institute), Marine Fouling and Its 
Prevention, 1952. 
20. C.D. Anderson, J.E. Hunter, Whiter Antifouling Paints After TBT?, NAV2000 
Conference Proceedings, Venice, September 2000. 
21. F.G.W. Smith, Effect of water currents upon the attachment and growth of 
barnacles, The Biological Bulletin, 1946, 90(1):51-70. 
22. WHOI (Woods Hole Oceanographic Institute), The Testing of Antifouling 
Paints (Marine Fouling and Its Prevention), 1952, tr. 331-348. 
23. D.M. Yebra, S. Kiil and K. Dam-Johansen, Antifouling technology - Past, 
present and future steps towards efficient and environmentally friendly 
antifouling coatings, Progress in Organic Coatings, 2004, 50(2):75-104. 
24. Nguyễn Văn Chi, Đồng Văn Kiên, Bùi Bá Xuân, Mai Văn Minh và Lê Hồng 
Quân, Khảo sát bám bẩn hệ Macro theo độ sâu và thời gian tại Trạm Nghiên 
cứu thử nghiệm biển Đầm Báy, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nhiệt đới, 
2018, 16:59-65. 
Nhận bài ngày 09 tháng 6 năm 2020 
Phản biện xong ngày 26 tháng 6 năm 2020 
Hoàn thiện ngày 30 tháng 6 năm 2020 
 (1) Chi nhánh Ven Biển, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga 

File đính kèm:

  • pdfket_qua_ung_dung_ban_dau_thiet_bi_chong_ha_bam_trong_moi_tru.pdf