Đánh giá sản lượng thủy sản khai thác qua khảo sát ngư cụ và thành phần loài cá khai thác ở hồ Trị An
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 11 năm 2007 đến tháng 3 năm 2009, qua khảo sát 203 hộ
ngư dân hoạt động khai thác thủy sản trên 19 loại ngư cụ ở vùng hồ Trị An. Số liệu được thu thập
qua hai mùa mưa và khô, bao gồm các thông số CPUE (Catch per unit effort: sản lượng khai thác /
ngư cụ), thời gian hoạt động của ngư cụ và tỷ lệ thành phần loài cá khai thác. Sản lượng khai thác
của mỗi nhóm ngư cụ có thể tính từ tích số của CPUE, số lượng ngư cụ và thời gian khai thác. Khi
các số liệu đăng ký ngư cụ và thời gian hoạt động được thực hiện đầy đủ như ở Công ty thủy sản
Đồng Nai trên hồ Trị An, việc khảo sát thêm thông số biến động CPUE hàng năm của các nhóm
ngư cụ cho phép tính nhanh sản lượng khai thác thủy sản của từng nhóm ngư cụ cũng như tổng sản
lượng khai thác trên toàn hồ. Nghiên cứu cho kết quả tổng sản lượng khai thác trên toàn hồ trong
năm 2008 là 3.819 tấn/năm, trong đó bước đầu định lượng được sản lượng khai thác đến từng nhóm
loài thủy sản. Có 4 loài cá dẫn đầu sản lượng (448-727 tấn/năm) chiếm tỉ lệ đánh bắt hơn 50% tổng
sản lượng toàn hồ nhưng lại thuộc nhóm cá tạp ít có giá trị kinh tế như sơn xiêm, cơm sông, ba dong
và lìm kìm, cho thấy tình trạng khai thác quá mức các loài cá có giá trị kinh tế đang là trở ngại cho
sự phát triển bền vững nghề cá trên hồ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sản lượng thủy sản khai thác qua khảo sát ngư cụ và thành phần loài cá khai thác ở hồ Trị An
(người) Sản lượng / ngư dân (tấn/người) 1993 800 300 2,7 1994 833 400 2,1 1995 1126 550 2,0 1996 1475 748 2,0 1997 1825 800 2,3 1998 1840 1234 1,5 1999 2269 1136 2,0 2000 2301 1470 1,6 138 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Qua khảo sát tỉ lệ thành phần loài đánh bắt của mỗi nhóm ngư cụ, kết quả sản lượng chi tiết của các loài được trình bày ở Bảng 5. Có 4 loài cá dẫn đầu sản lượng (448-727 tấn/năm) chiếm tỉ lệ đánh bắt hơn 50% tổng sản lượng toàn hồ, bao gồm sơn xiêm, cơm sông, ba dong và lìm kìm. Các đối tượng cá kinh tế nằm trong nhóm có sản lượng khai thác trên 100 tấn/năm bao gồm mè vinh, bống tượng, rô phi, trèn đá và chốt. Trong số 40 loài và nhóm loài cá khai thác phổ biến thống kê được trong nghiên cứu này, có tới 20 loài (chiếm 50%) có sản lượng không quá 6,2 tấn/năm và có 9 loài (chiếm 23%) có sản lượng không quá 0,6 tấn/năm. 2001 2786 1237 2,3 2002 3118 892 3,5 2003 3080 978 3,1 2004 2835 884 3,2 2005 2589 872 3,0 2006 2600 721 3,6 2007 2837 747 3,8 2008 3819* 1115 3,4 (Ghi chú: Sản lượng khai thác từ 1993-2007 do Công ty thủy sản Đồng Nai ước tính, riêng sản lượng khai thác năm 2008 là kết quả của nghiên cứu này) Bảng 5. Thành phần loài thủy sản khai thác ở hồ Trị An TT Loài Sản lượng (tấn/năm) Tỉ lệ (%) 1 Cá sơn xiêm Parambassis siamensis 727,1 19,0 2 Cá cơm sông Clupeichthys gonognathus 666,2 17,4 3 Cá ba dong Cyclocheilichthys repasson 566,1 14,8 4 Cá lìm kìm Dermogenys pusillus 448,4 11,7 5 Cá mè vinh Barbonymus gonionotus 278,8 7,3 6 Cá bống tượng Oxyeleotris marmoratus 176,5 4,6 7 Cá rô phi Oreochromis spp 167,7 4,4 8 Cá trèn đá Kryptopterus cryptopterus 155,2 4,1 9 Cá linh rìa Labiobarbur kuhli 147,3 3,9 10 Cá chốt các loại Mystus spp 119,0 3,1 11 Cá chép Cyprius carpio 92,1 2,4 12 Tép Macrobrachium spp 69,4 1,8 13 Cá lăng ki Hemibagrus wyckii 47,1 1,2 14 Cá lau kiếng Pterygoplichthys disjunctivus 32,9 0,9 139TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 IV. THẢO LUẬN So với thống kê ghi nhận 14 loại ngư cụ khai thác trên hồ năm 2005 của Phan Thanh Lâm (2006), các loại nghề cào gọng, lưới giựt, lưới rê cố định tầng mặt, lợp bát quái và lợp cá rô phi là những hình thức khai thác mới được đưa vào hồ sau năm 2005. Các nghề lưới rùng 2 ghe kéo, te 1 đèn và 18 đèn, vó không đèn cho CPUE cao hơn 50 kg/ngày nhưng có nhiều cá tạp dùng làm thức ăn nuôi cá bè. Đáng lưu ý là nghề lưới rê với mắt lưới 40-60 mm có CPUE chỉ cao hơn khoảng 40% so với lưới rê với mắt lưới 70-140 mm, cho thấy kích cỡ cá khai thác có dấu hiệu giảm sút rõ rệt, cảnh báo tình trạng 15 Cá hoàng đế Cichla ocellaris 20,1 0,5 16 Cá bống cát Glossogobius sp 16,9 0,4 17 Cá leo Wallago attu 14,8 0,4 18 Cá linh ống Henicorhynchus siamensis 13,1 0,3 19 Cá hạt mít Puntius brevis 12,5 0,3 20 Cá lăng vàng Hemibagrus nemurus 10,7 0,3 21 Cá kết Micronema bleekeri 6,2 0,2 22 Cá mè lúi Osteochilus hasseltii 5,0 0,1 23 Cá trê trắng Clarias batrachus 4,9 0,1 24 Cá rô đồng Anabas testudineus 4,9 0,1 25 Cá ngựa nam Hampala macrolepidota 4,0 0,1 26 Cá ét mọi Labeo chrysophekadion 3,6 0,1 27 Cá lóc các loại Channa spp 3,0 0,1 28 Cá trèn bầu Ompok bimaculatus 1,9 0,1 29 Cá mè trắng Hypophthalmichthys molitrix 1,7 0,1 30 Cá thát lát Notopterus notopterus 1,7 0,1 31 Cá chạch bông Mastacembelus armatus 1,5 0,1 32 Cá trắm cỏ Ctenopharyngodon idellus 0,6 0,02 33 Cá trôi Cirrhinus spp 0,4 0,01 34 Cá trê vàng Clarias macrocephalus 0,4 0,01 35 Cá chình hoa Anguilla marmorata 0,2 0,01 36 Cá chạch lá tre Macrognathus siamensis 0,2 0,01 37 Tôm càng xanh Macrobrachius rosenbergii 0,2 0,01 38 Cá tra Pangasius hypophthalmus 0,2 0,01 39 Cá mè hoa Hypophthalmichthys nobilis 0,1 0,002 40 Cá thiểu mại Paralaubuca barroni 0,01 0,001 140 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 khai thác quá mức nguồn lợi thủy sản trên hồ (Welcomme, 2001). Đối với các ngư cụ khai thác quanh năm, năng suất khai thác mùa khô cao hơn 57% so với sản lượng khai thác mùa mưa phản ánh đặc điểm quản lý nghề cá ở các hồ chứa lớn với mức nước dao động lớn trong năm, theo đó thời điểm đánh bắt vào mùa nước kiệt được khuyến cáo cần biện pháp hạn chế khai thác để bảo vệ nguồn lợi (De Silva, 2001). Ngư cụ trên hồ Trị An không chỉ đa dạng về chủng loại và ngư pháp đánh bắt mà còn có số lượng và tần suất hoạt động trong năm khá cao. Số lượng ngư cụ hoạt động dao động từ 2 đến 228 ngư cụ cho mỗi loại nghề và có đến 658- 670 đơn vị ngư cụ hoạt động trong mỗi mùa khai thác. Tuy nhiên, sự phát triển đa dạng các loại ngư cụ khai thác trên hồ có thể là cảnh báo cho tình trạng phát triển tự phát và thiếu quy hoạch quản lý trong hoạt động khai thác nguồn lợi thủy sản trên hồ (Oliver, 2002). Ngoài ra số đơn vị ngư cụ hoạt động ổn định ở cả hai mùa khai thác trong năm cho thấy các biện pháp giới hạn mùa vụ khai thác để bảo vệ nguồn lợi thủy sản cần được triển khai trên hồ (Baluyut, 1983). Sản lượng khai thác của các nhóm ngư cụ được ước tính dựa trên kết quả tích số của CPUE, số lượng ngư cụ và thời gian khai thác trong năm. Lorenzen (2001) cho rằng phương pháp tính sản lượng khai thác truy xuất từ các nhóm ngư cụ cho kết quả với độ chính xác cao nếu có sự am hiểu các ngư cụ khai thác và thống kê được nỗ lực khai thác đã đăng ký. Ngoài ra, phương pháp tính sản lượng khai thác chi tiết trên từng nhóm ngư cụ có thể cho phép hiệu chỉnh các sai số sản lượng khai thác tùy theo tình hình hoạt động thực tế hàng năm của các nhóm ngư cụ. Tổng sản lượng khai thác của 19 nhóm ngư cụ có đăng ký hợp pháp ở hồ Trị An là 3.819 tấn/năm. So với số liệu sản lượng khai thác ước tính của Công ty thủy sản Đồng Nai thông qua các bến cá và số ngư dân đăng ký từ năm 1993 đến 2007, số liệu tính toán của năm 2008 có mức sai khác đáng kể (Bảng 4). Tuy nhiên do các phương pháp ước tính sản lượng trong quá khứ không đồng nhất nên khó có thể so sánh số liệu các năm. Ngoài ra, những yếu tố dao động lớn của nguồn lợi thủy sản chưa được tính đến trong thống kê ở quá khứ, như tỉ lệ thành phần loài và mối quan hệ đa loài (King, 1995), đặt ra yêu cầu chi tiết hóa sản lượng của các giống loài cụ thể cho các năm. So với số liệu sản lượng khai thác thủy sản ở hồ chứa Trị An từ năm 1993 đến 2008 được thu thập từ báo cáo hàng năm của Công ty Thủy sản Đồng Nai, sản lượng khai thác thủy sản năm 2008 được ước tính trực tiếp từ nghiên cứu này có sự gia tăng mạnh. Sự khác biệt thể hiện ở hai phương pháp ước tính, khi Công ty Thủy sản Đồng Nai dựa trên khai báo và khảo sát các ngư dân, còn nghiên cứu này dựa trên đơn vị ngư cụ. Tuy nhiên, việc ghi nhận sản lượng khai thác dựa trên số lượng ngư dân có lẽ chỉ thích hợp cho công tác quản lý hơn là dựa trên cơ sở khoa học khai thác thủy sản (Fernando, 1980). Đứng ở khía cạnh quản lý, một vấn đề đáng quan tâm là khi lượng ngư dân tăng đột biến, sản lượng khai thác trên mỗi ngư dân có khuynh hướng giảm đột ngột, điều này cho thấy cần thiết phải kiểm soát số lượng ngư dân khai thác để tránh tình trạng khai thác quá mức (Oglesby, 1985). Các loài cá sơn xiêm, cơm sông, ba dong và lìm kìm dẫn đầu sản lượng khai thác ở hồ Trị An (448-727 tấn/năm) và chiếm tỉ lệ đánh bắt hơn 50% tổng sản lượng toàn hồ. Tuy nhiên các loài cá trên chủ yếu được sử dụng như cá tạp cho hoạt động nuôi bè, ít có giá trị kinh tế, cho thấy dấu hiệu khai thác quá mức trên hồ Trị An đã diễn ra nghiêm trọng trên các đối tượng cá dữ có giá trị kinh tế cao (Li và Xu, 1995). Tuy nhiên, trên phương diện quản lý nghề cá, việc tiếp tục khai thác các đối tượng cá tạp trên là hợp lý để giảm bớt áp lực lên bậc dinh dưỡng thức ăn phiêu sinh thực vật và động vật (Meyer và ctv., 1996). Điều đáng lưu ý là trong số các đối tượng cá thả bổ sung hàng năm trên hồ như mè, trôi, trắm, rô phi chỉ có cá rô phi đạt sản lượng khai thác 141TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 cao do khả năng sinh sản và tái bổ sung mạnh. Tuy nhiên, xét trên phương diện nguồn lợi thức ăn tự nhiên trên hồ, rõ ràng chiến lược thả cá trên hồ Trị An chưa phù hợp do chưa chọn được những đối tượng sử dụng nguồn lợi dồi dào của cá tạp kích thước nhỏ và tôm tép (Lương và ctv, 2002). Ngoài ra, Li và Xu (1995) cho thấy chiến lược thả bổ sung ở Trung Quốc ngày nay đã quan tâm hơn đến điều kiện thức ăn tự nhiên của hồ chứa để có công thức thả phù hợp. So với các thống kê từng ghi nhận 139 loài cá trên hồ Trị An (Nguyễn Thanh Tùng, Phan Thanh Lâm, 2002), hiện nay nhiều loài cá trong số này rất khó tìm thấy trong khai thác cũng như ở các bến cá. Tuy nhiên rất khó có thể so sánh về mức độ phong phú thành phần loài khi hai nỗ lực nghiên cứu ở khía cạnh phân loại và khai thác là hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh quản lý khai thác, danh mục 40 loài cá khai thác phổ biến mang ý nghĩa thiết thực hỗ trợ công tác quản lý và vận hành nghề cá trên các hồ chứa (Li và Xu, 1995). V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát hiện trạng khai thác thủy sản ở hồ chứa Trị An với các dữ liệu về năng suất khai thác trên từng nhóm ngư cụ, số lượng và thời gian hoạt động của các nhóm ngư cụ và tỷ lệ thành phần loài cá khai thác trên từng nhóm ngư cụ. Nghiên cứu cũng đã ước tính gián tiếp sản lượng khai thác của mỗi nhóm ngư cụ từ tích số của CPUE, số lượng ngư cụ và thời gian khai thác. Ngoài ra tỷ lệ thành phần loài cá khai thác trên toàn hồ cũng có thể ước tính được hàng năm dựa trên kết quả khảo sát tỷ lệ thành phần loài cá khai thác cho từng nhóm ngư cụ. Để kết quả nghiên cứu có thêm giá trị ứng dụng thực tiễn, các đơn vị quản lý thủy sản trên hồ chứa Trị An cần triển khai thu thập số liệu đăng ký ngư cụ và thời gian hoạt động hàng năm của các nhóm ngư cụ. Khi đó, việc khảo sát thêm thông số biến động CPUE hàng năm của các nhóm ngư cụ cho phép tính nhanh sản lượng khai thác thủy sản của từng nhóm ngư cụ cũng như tổng sản lượng khai thác trên toàn hồ. LỜI CẢM TẠ Tác giả xin cảm tạ Trần Văn Mẫn và các cán bộ ở Công ty thủy sản Đồng Nai, Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Đồng Nai và Trạm thủy sản Trị An đã hỗ trợ khảo sát. Nghiên cứu này được sự hỗ trợ kinh phí từ dự án CRSP mã số 07MNE03UM/ Vietnam. TÀI LIỆU THAM KHẢO Baluyut, E.A., 1983. Stocking and introduction of fish in lakes and reservoirs in the ASEAN countries. FAO Fish. Tech. Pap. No. 236, 82pp. De Silva, S.S., 2001. The impact of large reservoirs on fish biodiversity and fisheries in China. In: Reservoir and culture-based fisheries: biology and management (ed. S.S. De Silva), pp. 22-28. ACIAR Proceedings No. 98. 384 p. Fernando, C.H., 1980. The fishery potential of man-made lakes in South East Asia and some strategies for its optimization. Regional Center for Tropical Biology (BIOTROP), Bogor, Indonesia. Anniversary Publication, 1980, 25-38. Lê Đông Hải, 1995. Đánh giá hiện trạng, dự báo biến đổi môi trường khu vực công trình Trị An và đề xuất phương hướng phát triển kinh tế xã hội trong vùng. Báo cáo đề tài KT.02.15, Trung tâm bảo vệ môi trường EPC, 96 trang. King, M., 1995. Fisheries biology, assessment and management. Fishing News Books, UK, 341 pp. Lorenzen, K., 2001. Using population models to assess culture-based fisheries: a brief review with an application to the analysis of stocking experiments. In: Reservoir and culture-based fisheries: biology and management (ed. S.S. De Silva), pp. 257-265. ACIAR Proceedings No. 98, 384 p. Phan Thanh Lâm, 2006. Phân tích mô hình kinh tế sinh học cho nghề khai thác thủy sản trên hồ chứa Trị An. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, 15 trang. Vũ Cẩm Lương, 2005. Quản lý nguồn lợi thủy sản trong các hồ chứa ở châu Á: tổng quan các phương pháp tiếp cận. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp, số 1, 109-119. Li, S. and Xu, S., 1995. Culture and capture of fish in Chinese Reservoirs. IDRC, Ottawa, Canada and Southbound Sdn. Bhd. Penang, Malaysia, 128 pp. 142 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Luong, V.C., Kwei Lin, C. and Yakupitiyage, A., 2002. A trophic box model of cove aquaculture in Tri An Reservoir, Vietnam. Verh. Internat. Verein. Limnol., Stuttgart, 28, 1381-1384. Meyer, R.M., Zhang, C., McCay, B.J., Husak, L.J., Muth, R.M., Wolotira, R.J. (Eds.), 1996. Fisheries resources utilization and policy. Oxford & IBH, New Delhi, 535 pp. Oglesby, R.T., 1985. Management of lacustrine fisheries in the tropics. Fisheries, 10, 16-19. Oliver, M.A.R. (Ed.), 2002. Sustainable fisheries management in Asia. Asian Productivity Organization, Tokyo, 325 pp. Nguyễn Thanh Tùng, Phan Thanh Lâm, 2002. Đánh giá tình hình bảo tồn, bảo vệ tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản tại hồ Trị An 5 năm qua. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, 45 trang. Welcomme, R.L., 2001. Inland fisheries, ecology and management. Fishing News Books, Blackwell Science, London, 358 pp. FISH CATCH ASSESSMENT WITH FISHING GEARS AND FISH SPECIES COMPOSITION AT TRI AN RESERVOIR Vu Cam Luong1, Nguyen Phu Hoa1, Le Thanh Hung1 ABSTRACT This study was conducted at Tri An Reservoir of Vietnam during November 2007 to March 2009 to investigate 203 fishermen within 19 fishing gears. The data was collected throughout both rainy and dry seasons, including CPUE (Catch per unit effort), fishing operation time and species composi- tion. Fish catch of each fishing gear can be calculated as the product of CPUE, quantity of fishing gears and fishing operation time. As fishing gears data was recorded carefully at Dongnai Fisheries Company, additional yearly investigation of CPUE may allow quick access to total catch as well as fish catch of each fishing gear. This study resulted a total catch of 3,819 tons/year in 2008, in which fish catch of each species were also included. There were four fish species with highest catch (448-727 tons/year) accounting of more than 50% the reservoir’s total catch, such as Parambassis siamensis, Clupeichthys gonognathus, Cyclocheilichthys repasson and Dermogenys pusillus. How- ever, such species were small low-value fish that are abundant in the reservoir for the use of feeding cage culture, thus overfishing of economically important fish may occur and threating sustainable fisheries development at the reservoir. Key words: Fish catch; fishing gear; fish species composition Người phản biện: ThS. Vũ Vi An Ngày nhận bài: 6/6/2013 Ngày thông qua phản biện: 22/6/2013 Ngày duyệt đăng: 8/7/2013 1 Department of Fish Pathology, Faculty of Fisheries - Nong Lam University, Hochiminh City Email: vcluong@gmail.com
File đính kèm:
- danh_gia_san_luong_thuy_san_khai_thac_qua_khao_sat_ngu_cu_va.pdf