Đánh giá diễn biến chất lượng nước và mầm bệnh trên tôm nuôi mô hình nuôi luân canh tôm lúa
TÓM TẮT
Mô hình nuôi luân canh tôm lúa (tôm lúa) là hình thức canh tác hiệu quả không chỉ về kinh tế, mà
còn là phương thức canh tác bền vững. Sau mỗi vụ nuôi tôm, các chất thải sinh ra chính là nguồn
dinh dưỡng tốt cho cây lúa. Quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa sử dụng dinh dưỡng từ các
sản phẩm thải từ nuôi tôm sẽ làm cho môi trường sạch hơn, khi lúa thu hoạch gốc rạ và hạt lúa sót
lại cung cấp một phần nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm nuôi. Trong thời gian từ tháng 3-9/2016, 8
ao nuôi mô hình tôm lúa tại xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu được theo dõi chất lượng
nước và dịch bệnh trên tôm nuôi kết quả như sau: Do đặc thù của mô hình nuôi luân canh tôm lúa
được trao đổi nước thường xuyên nên chất lượng nước mô hình nuôi này phụ thuộc rất lớn vào chất
lượng nước của kênh cấp, đặc biệt là giá trị độ mặn. Các thông số chỉ thị ô nhiễm chưa ghi nhận sự
tích lũy ô nhiễm trong quá trình nuôi. Trong các ao nuôi được theo dõi phát hiện mầm bệnh MBV
trong hầu hết các cao nuôi (chiếm 100% ao nuôi). Tỷ lệ nhiễm bệnh đốm trắng trên các ao theo dõi
không quá 2% quần đàn tôm, tuy nhiên đây vẫn là một trong những bệnh nguy hiểm đối với tôm
nuôi mà chưa có giải pháp phòng triệt để. Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính vẫn còn là một trong những
bệnh nguy hiểm gây chết hàng loạt tôm nuôi, trong quá trình giám sát tỷ lệ bệnh này chiếm 75%
ao nuôi. Đối với phức hợp đầu vàng (YHCV) chưa phát hiện trường hợp nào trong nghiên cứu này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá diễn biến chất lượng nước và mầm bệnh trên tôm nuôi mô hình nuôi luân canh tôm lúa
03mg/L và 18-234mg/L. Hình 10. Diễn biến TSS trong ao nuôi và kênh cấp mô hình nuôi tôm lúa COD trong ao nuôi và nước kênh cấp Hàm lượng COD trong các ao nuôi và kênh cấp đều cao hơn 10mg/L trong suốt thời gian khảo sát. Trong đó ghi nhận hàm lượng COD trong các kênh cấp dao động từ 6,4-22,4mg/L, trong các ao nuôi từ 8,6-25,3mg/L, hàm lượng COD trong các kênh cấp thấp hơn so với trong các ao nuôi. Từ Hình 11 còn ghi nhận có hiện tượng tích luỹ các chất hữu cơ trong ao nuôi. Đối với mô hình này các chất hữu cơ sẽ giảm khi các nông hộ xen canh trồng lúa. Hình 11. Diễn biến COD trong ao nuôi và kênh cấp mô hình nuôi tôm lúa 109TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Mật độ Vibrio tổng số cao vượt trên 1.000 CFU/ml chỉ phát hiện trong ở 1 hộ nuôi, các ao nuôi còn lại không ghi nhận mật độ Vibrio cao vượt ngưỡng trong suốt quá trình giám sát ao nuôi. Đối với kênh cấp ghi nhận tần suất mật độ vi khuẩn Vibrio tổng số cao vượt ngưỡng chỉ chiếm khoảng 8-16% lượt quan trắc. Điều này cho thấy việc lấy nước vào ao nuôi cần hết sức thận trọng nhất là ở mô hình tôm lúa thường lấy nước trực tiếp vào ao nuôi mà không qua diệt khuẩn. 3.3. Kết quả theo dõi bệnh trên tôm Kết quả kiểm tra mầm bệnh MBV, HPV, WSSV, YHCV, Vibrio parahaemolyticus và EHP trên tôm định kỳ 1 tuần/lần cho mô hình nuôi tôm lúa ở huyện Hồng Dân tỉnh Bạc Liêu được trình bày trong Bảng 3 cho thấy hầu hết các ao nuôi đều ghi nhận có tôm nhiễm bệnh MBV, tỷ lệ phát hiện mầm bệnh trong ao nuôi chiếm 33,3-70,8% lượt giám sát với tỷ lệ nhiễm chung là 49,72% (Hình 13). Đối với mô hình nuôi tôm lúa mật độ thả nuôi thấp, diện tích ao nuôi lớn nên người nuôi ít đầu tư chi phí, chất lượng tôm giống không tốt, không kiểm tra mầm bệnh trước khi thả nuôi nên tỷ lệ nhiễm MBV khá cao. Kết quả kiểm tra MBV trên tôm nuôi cho thấy 100% ao nuôi xuất hiện bệnh này. Bệnh do MBV không gây chết hàng loạt tôm nuôi nhưng làm tôm chậm lớn vì vậy giảm năng suất thu hoạch. Tỷ lệ nhiễm WSSV không cao (1-2%) nhưng đối với WSSV cần được lưu ý vì gây chết hàng loạt và mức độ lây lan mạnh. Đối với phức hợp đầu vàng YHCV chưa ghi nhận trường hợp nhiễm nào trong thời gian giám sát. Ngoài ra còn ghi nhận sự hiện diện của bệnh AHPND rải rác trong các ao được giám sát tại xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu, tỷ lệ ao nuôi có mầm bệnh khá cao (75% ao nuôi) và tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus chung là 17,7%. Kết quả phân tích còn phát hiện dương tính với EHP (vi bào tử trùng) gây ra chậm lớn trên tôm, thời gian ghi nhận dương tính rải rác trong các lượt quan trắc và tuần suất xuất hiện thấp, tỷ lệ nhiễm EHP chung là 3,13%. Tuy nhiên số ao nuôi dương tính với EHP chiếm 75% số ao nuôi được giám sát. Vibrio tổng số trong ao nuôi và nước kênh cấp Kết quả ghi nhận mật độ Vibrio tổng số trong các ao nuôi và kênh cấp đều thấp hơn 1.000CFU/ml. Tuy nhiên đối với TS-1 thông số này thường xuyên vượt ngưỡng và mật độ vi khuẩn cao hơn 1.000 CFU/ml từ 5-25 lần. Mật độ vi khuẩn trong ao nuôi này biến động mạnh giữa các lần khảo sát do mô hình nuôi thả mật độ thấp trên diện tích rộng nên việc kiểm soát gặp rất nhiều khó khăn. Hình 12. Diễn biến Vibrio tổng số trong ao nuôi và kênh cấp mô hình nuôi tôm lúa 110 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II IV. THẢO LUẬN Theo dõi chất lượng nước trong các ao nuôi tôm là một phần không thể thiếu trong quy trình nuôi, các yếu tố thủy lý hóa ảnh hưởng rất lớn đến thành công của một vụ nuôi. Theo Nguyễn Anh Tuấn (2003) và Boyd (1998), hàm lượng ammonia thích hợp cho ao nuôi tôm là 0,2-2mg/ L và khí NH3 phải nhỏ hơn 0,1mg/L, như vậy giá trị ammonia trong hầu hết các ao nuôi đều nằm trong khoảng khuyến cáo. Theo Chen và Chin (1988), LC 50 -24 giờ của nitrite lên các giai đoạn nauplius, zoea, mysis và postlarvae của tôm P. monodon tương ứng là 5,0 mg/L, 13,20 mg/L, 20,65 mg/L và 61,87 mg/L. Các nghiên cứu LC 50 -96 giờ của nitrite đối với tôm P. monodon cho thấy trong giai đoạn giống, LC 50 -96 giờ của nitrite là 54,76 mg/L (Chen và Lei, 1990); tôm kích cỡ lớn hơn (91,0 ± 8,0 mm) là 171 mg/L (Chen ctv., 1990b). Trong một nghiên cứu khác, Chen ctv., (1990) báo cáo LC50-96 giờ của nitrite đối với tôm Penaeus chinensis (39,6±1,8 mm; 0,36±0,06 g) là 37,71 mg/L. Chen và Lin (1991) khảo sát ảnh hưởng của nitrite trên tôm Penaeus penicillatus (38,5 - 47,5 mm) ở nồng độ muối 25‰ và 34‰ thì LC50-96 giờ của nitrite tương ứng là 38,52 mg/L và 40,85 mg/L. Lin và Chen (2003) báo cáo rằng tôm L. vannamei giống (56 ± 9,6 mm) có khả năng chịu đựng độ độc của nitrite cao hơn các loài tôm biển nêu trên với LC50-96 lần lượt là 76,5; 178,3 và 321,7mg/L ở nồng độ muối 15‰; 25‰ và 35‰ (pH 8,02, nhiệt độ Bảng 3. Tần suất xuất hiện bệnh trên tôm nuôi mô hình tôm lúa Nông hộ Số mẫu kiểm tra MBV HPV WSSV YHCV AHPND EHP BA-1 24 14 0 0 0 6 1 BA-2 24 17 0 0 0 9 1 CX-1 24 8 0 1 0 10 0 CX-2 24 14 0 1 0 3 1 TS-1 24 13 2 0 0 1 0 TS-2 24 10 0 1 0 2 1 TS-3 24 8 0 0 0 3 1 TS-4 24 8 0 0 0 0 1 Ghi chú: MBV, HPV, YHCV được kiểm tra bằng phương pháp mô học, EHP được kiểm tra bằng phương pháp PCR. AHPND và WSSV được kiểm tra bằng cả 2 phương pháp Hình 13. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh trên các ao mô hình tôm lúa 111TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 18°C). Như vậy, giá trị nitrite trong các ao nuôi chưa gây ảnh hưởng đến sức khoẻ tôm nuôi. Theo Bhatnagar & Devi (2013) trích dẫn Bhatnagar và ctv., (2004), hàm lượng phosphate được đề nghị là 0,05-0,07 mg/L tối ưu và hiệu quả; 1,0 mg/L tốt cho thực vật phù du và tôm nuôi. Hầu hết hàm lượng phosphate ghi nhận được trong ao nuôi mô hình tôm lúa đều thấp hơn 0,6mg/L rất thích hợp cho thực vật phù du phát triển. Như vậy giá trị phosphate trong các ao nuôi vượt mức khuyến cáo. Sự dư thừa thức ăn, sự bài tiết của vật nuôi, xác động thực vật phù du là nguồn chính phát sinh các chất hữu cơ trong ao nuôi. Đây cũng chính là nguồn tích luỹ làm gia tăng hàm lượng các chất hữu cơ theo thời gian nuôi, đồng thời tạo nguồn dinh dưỡng cho thực vật phù du phát triển cung cấp thức ăn tự nhiên cho tôm nuôi mô hình tôm lúa. Nằm ở hạ lưu sông Mekong, trong các tháng mưa lũ, phù sa từ thượng nguồn đổ về cùng với việc rửa trôi bụi đất trên bờ kênh mương đã góp phần làm gia tăng hàm lượng TSS trong các kênh cấp. Theo Nguyễn Thanh Long (2008), mức độ tích luỹ chất rắn lơ lững trong ao nuôi tôm sú thâm canh không thay nước và không bổ sung nước là 746,6mg/L. Theo Ganesh và ctv., (2010), mật độ Vibrio trong thủy sản nên ở mức <103 CFU/ml. Trong nghiên cứu của Heenatigala và Fernando (2016) thu mẫu nước từ ao nuôi tôm ở Sri Lanka cho kết quả Vibrio tổng cao hơn 103 CFU/ml nước. Trong mô hình nuôi ít thay nước và sử dụng phân hữu cơ, vô cơ gây màu, mật độ nuôi cao, thức ăn dư thừa, lượng phân thải ra, tảo nở hoa và tàn là những yếu tố làm tăng mật độ Vibrio tổng trong ao nuôi (Moriarty, 1997; Lloberra và ctv., 1991). Do đặc thù của mô hình nuôi, việc xử lý chất lượng nước các ao nuôi mô hình tôm lúa không có hiệu quả kinh tế do vậy khi phát hiện vibrio tổng số trong ao nuôi TS-1 rất cao hộ nuôi cũng đã xử lý diệt khuẩn nhưng hiệu quả đạt được vẫn chưa cao. Ngoài ra, các mẫu kiểm tra bệnh tôm cho thấy hầu hết các ao nuôi đều ghi nhận có tôm nhiễm bệnh MBV. Đối với mô hình nuôi tôm lúa mật độ thả nuôi thấp, diện tích ao nuôi lớn nên người nuôi ít đầu tư chi phí, chất lượng tôm giống không tốt, không kiểm tra mầm bệnh trước khi thả nuôi nên tỷ lệ nhiễm MBV khá cao. Bệnh do MBV không gây chết hàng loạt tôm nuôi nhưng làm tôm chậm lớn vì vậy giảm năng suất thu hoạch. Nhiệm vụ sau khi phát hiện mầm bệnh MBV trong ao nuôi đã khuyến cáo người dân nên kiểm tra mầm bệnh trước khi thả nuôi hoặc chọn cơ sở tin cậy để mua giống nhằm giảm rủi ro. Tỷ lệ nhiễm WSSV không cao (1-2%) nhưng đối với WSSV cần được lưu ý vì gây chết hàng loạt và mức độ lây lan mạnh. Đối với trường hợp phát hiện dương tính với WSSV, AHPND nhiệm vụ đã điện thoại thông báo cho hộ nuôi, đưa ra một số khuyến cáo nhằm giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi và tránh lây lan. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Mô hình nuôi luân canh tôm lúa được trao đổi nước thường xuyên nên chất lượng nước mô hình nuôi này phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nước của kênh cấp, đặc biệt là giá trị độ mặn. Các thông số chỉ thị ô nhiễm chưa ghi nhận sự tích lũy ô nhiễm trong quá trình nuôi. Trong năm 2016 bệnh hoại tử gan tụy cấp tính vẫn còn là một trong những bệnh nguy hiểm gây chết hàng loạt tôm nuôi. Tỷ lệ nhiễm bệnh đốm trắng trên các ao theo dõi không quá 2% tuy nhiên đây vẫn là một trong những bệnh nguy hiểm đối với tôm nuôi mà chưa có giải pháp phòng triệt để. Các mầm bệnh trên mô hình tôm lúa chủ yếu là MBV và Vibrio parahaemolyticus, do thả nuôi với mật độ thấp trên diện tích lớn nên việc chữa trị thường không mang lại hiệu quả kinh tế cao. 5.2. Đề xuất Cần kiểm tra thường xuyên các yếu tố môi trường cũng như tình trạng sức khỏe tôm nuôi để có biện pháp ứng phó kịp thời và sớm nhất. Các hộ nuôi cần kiểm tra chất lượng con giống trước khi thả nuôi để giảm thiểu rủi ro. 112 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh Phuong, Ðặng Thị Hoàng Oanh, Trần Ngọc Hải, 2003. Quản lý sức khỏe tôm trong ao nuôi. Tái bản lần thứ 4. Nguời dịch: Danida-Bộ Thủy sản 2003. Nguyễn Thanh Long, Võ Thành Toàn, 2008. Đánh giá mức độ tích luỹ đạm, lân trong mô hình nuôi tôm sú thâm canh. Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ 2008. Tài liệu tiếng Anh Bhatnagar, A., Devi, P., 2013.Water quality guidelines for the management of pond fish culture. International journal of environmental sciences 3. Boyd, C.E. and Tucker, C.S., 1998. Pond Aquaculture Water Quality Management. Kluwer Academic Publishing, Boston, MA, USA. Chang, Y.S., Lo, C.F., Peng, S.E., Liu, K.F., Wang, C.H., Kou, G.H., 2002. White spot syndrome virus (WSSV) PCR-positive Artemia cysts yield PCR-negative nauplii that fail to transmit WSSV when fed to shrimp postlarvae. Dis Aquat Organ 49. Chen, J. C. and Chin T. S., 1988. Acute toxicity of nitrite to tiger prawn, Penaeus monodon, larvae. Aquaculture, 69. Chen, J.C., Lei S.C., 1990. Toxicity of Ammonia and Nitrite to Penueus monodon Juveniles. Journal of the World Aquaculture Society, 21. Chen, J.C., Lin, C.Y., 1991. Lethal effects of ammonia and nitrite on Penaeus penicillatus juveniles at two salinity levels. Comp. Biochem. Physiol. Chen, J.C., Liu P.C. and Lei S.C., 1990.Toxicities of ammonia and nitrite to Penaeus monodon adolescents. Aquaculture, 89. Dung, Le Canh., 2009. Environmental and Socio- Economic Impacts of Integrated RiceShrimp Farming: Companion Modelling Case Study in Bac Lieu Province, Mekong Delta, Vietnam. PhD Thesis. Chulalongkorn University, Thailand. Ganesh E.A., S. Das, K. Chandrasekar, G. Arun. & S. Balamurugan., 2010. Monitoring of total heterotrophic bacteria and Vibrio spp. in an aquaculture pond. Current Research Journal of Biological Sciences 2. Han, J.E., Kathy, F.J. Tang, Loc H. Tran, Donald V. Lightner., 2015. Photorhabdusinsect-related (Pir) toxin-like genes in a plasmid of Vibrio parahaemolyticus, the causative agent of acute hepatopancreatic necrosis disease (AHPND) of shrimp. Dis Aquat Organ. Heenatigala P.P.M and Fernando M.U.L., 2016. Occurrence of bacteria species responsible for vibriosis in shrimp pond culture systems in Sri Lanka and assessment of the suitable control measures. Sri Lanka J. Aquat., Sci. 21. Kiatpathomchai, W., Boonsaeng, V., Tassanakajon, A., Wongteerasupaya, C., Jitrapakdee, S., Panyim, S., 2001. A non-stop, single-tube, semi-nested PCR technique for grading the severity of white spot syndrome virus infections in Penaeus monodon. Dis Aquat Organ 47. Lightner, D.V., 1996. A Handbook of Shrimp Pathology and Diagnostic Procedures for Diseases of Cultured Penaeid Shrimp. World Aquaculture Society, Baton Rouge. Lloberra, A.T., M.L. Bulalacao, & A. Tan., 1991. Effect of farming phase and inplant processing on the microbiological quality of prawn (Penaeus monodon). In: Indo-Pacific Fishery Commission Working Party on Fish Technology and Marketing 19 (22), Food and Agriculture Organization ofthe United nations, Rome. Moriarty, DJW., 1997. The role of microorganisms in aquaculture ponds. Aquaculture 151. Tang, K.F.J., Pantoja, C.R., Redman, R.M., Han, J.E., Tran, L.H., Lightner, D.V., 2015. Development of in situ hybridization and PCR assays for the detection of Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), a microsporidian parasite infecting penaeid shrimp. J Invertebr Pathol. 113TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ASSESSMENT OF WATER QUALITY AND DISEASES ON RICE-SHRIMP CULTURE ROTATION Nguyen Thanh Truc1*, Le Hong Phuoc1, Thoi Ngoc Bao1, Dang Ngoc Thuy1, Tran Minh Thien1 ABSTRACT The rice-shrimp culture rotation is an efficient farming system in both economic aspect and sustainable development. The waste at the end of each culture cycle is the valuable nutrient source for rice field. Water quality and disease control are two of the main factors. Development of the rice field bases on the waste help to improve the quality of environment. Paddy grain and straw are the natural feed for shrimp. This study was conducted from March to August, 2016. Eight rice-shrimp culture rotation ponds at Loc Ninh commune, Hong Dan District, Bac Lieu was observed for water quality and diseases during one cultured cycle. It was found that water quality in rice-shrimp culture rotation model is totally depend on water quality from the suppiled canal especially salinity. Other parameters as indicator of pollution have been recorded at lower warning value for development of aquatic animals. Monodon Baculo virus (MBV) was detected from all eight observed shrimp ponds. The prevalence of White Spot Disease was less than 2% but it was considered as the most serious disease in shrimp culture. In our study, Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND) was found in 75% of observed pond. Keywords: disease, rice-shrimp culture rotation, sustainable culture, water quality. Người phản biện: TS. Nguyễn Nhứt Ngày nhận bài: 12/11/2017 Ngày thông qua phản biện: 30/11/2017 Ngày duyệt đăng: 12/12/2017 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquacul- ture No2. *Email: ksthanhtruc2002@yahoo.com
File đính kèm:
- danh_gia_dien_bien_chat_luong_nuoc_va_mam_benh_tren_tom_nuoi.pdf