Ảnh hưởng của xâm nhập mặn và thời tiết cực đoan đến hoạt động ương & nuôi cá tra tại Sóc Trăng
TÓM TẮT Xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra nhiều ảnh hưởng đối với hoạt động ương – nuôi cá tra tại Sóc Trăng. Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp khảo sát áp dụng công cụ phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi bán cấu trúc trên 97 đối tượng là những hộ ương – nuôi cá thể, các quản lý trang trại nuôi của các công ty và những người nắm thông tin tại Sóc Trăng. Hầu hết các đối tượng đã nhận thức được ảnh hưởng của xâm nhập mặn và các cực đoan về thời tiết đến hoạt động này và cho rằng tương đối khó khăn trong việc khắc phục xâm nhập mặn. Ngoài ra, tỷ lệ lớn nhất ở cả 3 nhóm đối tượng đều cho rằng đã có những bất thường – cực đoan về khí hậu – thời tiết xảy ra ở mức độ nào đó và xâm nhập mặn là vấn đề được quan tâm – lo ngại nhiều nhất. Trong tương lai, xâm nhập mặn vẫn là vấn đề lo ngại cao nhất đối với hoạt động ương – nuôi cá tra ở tất cả các nhóm đối tượng. Tuy nhiên, biến động nhiệt độ theo thời gian, thời tiết thất thường, được quan tâm nhiều hơn bởi những người nắm thông tin nhưng không được đánh giá cao bởi những đối tượng trực tiếp sản xuất. Thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra được cả 3 nhóm xem như là biện pháp thích ứng quan trọng nhất để ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của xâm nhập mặn và thời tiết cực đoan đến hoạt động ương & nuôi cá tra tại Sóc Trăng
ng hiểu được xâm nhập mặn ngày càng tác động đến hoạt động nuôi cá tra tại Sóc Trăng. Nghiên cứu với cá có khối lượng trung bình 25g đã cho thấy độ mặn 9‰ làm tốc độ sinh trưởng của cá giảm rõ rệt [2]. Điều này cũng phù hợp với khuyến cáo của Vụ Nuôi trồng thủy sản (2008) khi cho rằng xâm nhập mặn sẽ gây tác hại đến nghề nuôi cá tra và nếu độ mặn cao hơn 4‰ sẽ không thích hợp cho đối tượng nuôi này. Theo đó, người nuôi trên địa bàn nghiên cứu cố gắng giữ nước ao có độ mặn dưới 7‰. Để bảo đảm chất lượng nước, trong khoảng thời gian này người nuôi phải giảm cho ăn. Điều này làm giảm tốc độ sinh trưởng của cá dẫn đến làm giảm năng suất và sản lượng vụ nuôi [7]. Riêng vấn đề biến động nhiệt độ theo thời gian, thời tiết thất thường,không được đánh giá cao bởi nhóm những đối tượng trực tiếp sản xuất nhưng lại được quan tâm nhiều hơn bởi nhóm đối 6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020 tượng là những người am hiểu. Điều này có thể là nhờ vào những biện pháp khắc phục như đào sâu ao, dự trữ nước ngọt để thay nước, nên ảnh hưởng tăng chậm của biến động nhiệt độ theo thời gian và thời tiết thất thường,trên địa bàn nghiên cứu vẫn chưa đưa đến những thiệt hại tức thời và trực quan để được những người ương – nuôi cá tra ưu tiên quan tâm. Ngược lại, với quan điểm của nhà quản lý, những người am hiểu lại cho rằng các vấn đề này cần được quan tâm với tính chất có khả năng tác động đến hoạt động ương nuôi cá tra trong 5 – 10 năm đến. 2. Các biện pháp thích ứng của người nuôi Trước những ảnh hưởng tiêu cực gây ra do biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn, cần phải có những biện pháp khắc phục nhằm duy trì hoạt động ương – nuôi cá tra. Kết quả khảo sát về khả năng khắc phục những tác động do biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn (bảng 3) cho thấy ý kiến phản hồi có sự khác biệt giữa các nhóm đối tượng khảo sát (p<0,05). Đáng lưu ý, tỷ lệ lớn ý kiến từ những người ương nuôi cá tra trong thực tế cho rằng rất khó khăn hoặc tương đối khó khăn trong việc khắc phục vấn đề này (lần lượt chiếm các tỷ lệ 35,56% và 46,67% ở nhóm hộ ương – nuôi cá thể, và 33,33% và 66,67% ở nhóm quản lý trại nuôi của các công ty). Trong khí đó, mặc đù đa số ý kiến đánh giá tương đối khó khăn (82,5%), vẫn có một tỷ lệ tương đối ở nhóm người am hiểu (12,5%) cho rằng không gặp khó khăn trong việc khắc phục vấn đề này. Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy hiện tượng xâm nhập mặn gây ảnh hưởng đến hoạt động ương – nuôi cá tra đã trở nên thường xuyên hơn, xuất hiện sớm hơn với mức độ nghiêm trọng hơn tùy theo khu vực. Thông thường, hiện tường này xảy ra từ ngày 7 – 14 Âm lịch hàng tháng với độ mặn nước sông ở Sóc Trăng có thể lên đến 13‰ - 16‰. Để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn, người ương – nuôi cá tra phải có các biện pháp khắc phục nhằm bảo đảm hoạt động (bảng 5). Kết quả ở bảng 5 cho thấy không có nhóm đối tượng nào đồng tình với ý kiến ngừng hoạt động – chuyển đổi ngành nghề. Điều này tiếp tục khẳng định ương – nuôi cá tra là một hoạt động sinh kế gắn bó với một bộ phận lớn nông dân ở Sóc Trăng. Kết quả xử lý thống kê chỉ ra hầu hết việc lựa chọn các biện pháp khắc phục những khó khăn gây ra bởi xâm nhập mặn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm đối tượng (p>0,05); ngoại trừ duy nhất trường hợp phản hồi về việc áp dụng biện pháp củng cố công trình (p<0,05). Việc thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra (giảm mật độ, tăng cường sức đề kháng cho cá nuôi, nuôi theo quy trình khép kín và giảm cho ăn để hạn chế thay nước khi bị xâm nhập mặn,) đều được cả 3 nhóm khảo sát xem như là biện pháp thích ứng quan trọng nhất (lần lượt chiếm tỷ lệ 75,56%, 83,33% và 90% ở các nhóm hộ cá thể, quản lý trang trại công ty và người am hiểu). Trong bối cảnh chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi Bảng 2. Nhận thức về biến đổi khí hậu của các đối tượng liên quan đến hoạt động ương – nuôi cá tra Đối tượng đánh giá Hiện tượng bất thường - cực đoan xảy ra (% ý kiến đánh giá) Quan tâm – lo ngại của những người được khảo sát (% ý kiến đánh giá) Rất thường xuyên Ở mức nào đó Không bất thường Rất lo ngại Tương đối lo ngại Không lo ngại Người ương – nuôi (n=45) 20,0a (9/45) 68,89a (31/45) 11,11a (5/45) 22,22a (10/45) 66,67a (30/45) 11,11a (5/45) Quản lý trang trại (n=12) 41,57a (5/12) 58,33a (7/12) 0,0a(0/12) 33,33a (4/12) 66,67a (8/12) 0,0a (0/12) Người am hiểu (n=40) 25,0a (10/40) 70,0a (28/40) 5,0a (2/40) 17,5a (7/40) 82,5a (33/40) 0,0a (0/40) Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7 Bảng 3. Các vấn đề gây ra bởi biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến hoạt động ương – nuôi cá tra Đối tượng đánh giá Hiện tượng (% ý kiến đánh giá) Khó khăn trong khắc phục (% ý kiến đánh giá) Xâm nhập mặn Thời tiết bất thường Biến động nhiệt độ theo thời gian Thay đổi lượng mưa Thay đổi chế độ gió Lũ lụt Rất khó khăn Tương đối khó khăn Không khó khăn Người ương – nuôi (n=45) 97,78a (44/45) 88,89a (40/45) 93,33a (42/45) 33,33a (15/45) 31,11a (14/45) 11,1a (5/45) 35,56a (16/45) 46,67a (21/45) 17,77a (8/45) Quản lý trang trại (n=12) 100a (12/12) 100a (12/12) 91,67a (11/12) 33,33a (4/12) 58,33a (7/12) 8,33a (1/12) 33,33a (4/12) 66,67a (8/12) 0a (0/12) Người am hiểu (n=40) 100a (40/40) 95a (38/40) 95a (38/40) 87,5b (35/40) 47,5a (19/40) 22,5a (9/40) 2,5b (1/40) 82,5b (34/40) 12,5b (5/40) Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Bảng 4. Đánh giá những vấn đề có khả năng tác động đến hoạt động ương nuôi cá tra trong 5 – 10 năm đến Đối tượng đánh giá Tác động Xếp hạng Xâm nhập mặn (% ý kiến đánh giá) Gia tăng dịch bệnh (% ý kiến đánh giá) Tăng chi phí đầu tư (% ý kiến đánh giá) Biến động giá cả - thị trường (% ý kiến đánh giá) Vấn đề khác (biến động nhiệt độ, thời tiết thất thường,) (% ý kiến đánh giá) Hộ ương – nuôi các thể (n=44) 1 81,82a (36/44) 2,27a (1/44) 0a (0/44) 6,82a (3/44) 0a (0/25) 2 11,36a (5/44) 47,73a (21/44) 47,73a (21/44) 36,36a (16/44) 0a (0/25) 3 4,55a (2/44) 18,18a (8/44) 38,64a (17/44) 40,91a (18/44) 20a (5/25) 4 2,22a (1/44) 4,55a (2/44) 13,64a (6/44) 15,91a (7/44) 32a (8/25) 5 0a (0/44) 25a (12/44) 0a (0/44 ) 0a (0/44) 48a (12/25) Quản lý trang trại (n=12) 1 75a (9/12) 0a,b (0/12) 0a (0/12) 0a,b (0/12) 0b (0/12) 2 8,33a (1/12) 50a,b (6/12) 50a (6/12) 50a,b (6/12) 8,33b (1/12) 3 0a (0/12) 16,67a,b (2/12) 41,67a (5/12) 25a,b (3/12) 0b (0/12) 4 0a (0/12) 0a,b (0/12) 0a (0/12) 8,33a,b (1/12) 33,33b (4/12) 5 16,67a (2/12) 33,33a,b (4/12) 8,33a (1/12) 16,67a,b (2/12) 58,33b (7/12) Người am hiểu (n=39) 1 75,49a (31/39) 23,08b (9/39) 2,56a (1/39) 35,90b (14/39) 15,38c (6/39) 2 10,26a (4/39) 41,03b(16/39) 61,54a (24/39) 28,21b (11/39) 28,21c (11/39) 3 2,56a (1/39) 10,26b (4/39) 30,77a (12/39) 23,08b (9/39) 38,46c (15/39) 4 5,13a (2/39) 12,82b (5/39) 2,56a (1/39) 7,69b (3/39) 2,56c (1/39) 5 2,56a (1/39) 12,82b (5/39) 0a (0/39) 5,13b (2/39) 12,82c (5/39) Ghi chú:- 1 hộ nuôi và 1 người am hiểu chỉ nêu ý kiến đánh giá mà không xếp hạng các tác động đến hoạt động ương nuôi cá tra - Chỉ có 25 hộ ương – nuôi đánh giá về mục vấn đề khác như thời thiết bất thường, cực đoan, biến động nhiệt độ - Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) 8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020 Khí hậu mà cụ thể là hiện tượng xâm nhập mặn, việc bảo đảm tỷ lệ sống, giảm dịch bệnh và thúc đẩy tăng trưởng của cá nuôi để ổn định năng suất bằng những biện pháp kỹ thuật thực sự là ưu tiên hàng đầu. Ngược lại, biện pháp thay đổi mùa vụ khó khả thi với đa số người nuôi (tỷ lệ lựa chọn thấp) do hoạt động ương - nuôi cá tra gần như tiến hành quanh năm, đặc biệt là thời gian nuôi kéo dài, thậm chí phải gối vụ từ năm này qua năm sau. Nhóm biện pháp củng cố công trình (nâng cao và gia cố bờ bao, đào sâu ao đến 4 – 5 m) được hai nhóm đối tượng là các hộ ương – nuôi cá thể và những người am hiểu ưu tiên hơn so với biện pháp thay đổi mùa vụ với 24,44% và 65% số ý kiến phản hồi. Riêng ở nhóm những người quản lý trang trại của các công ty, không có ý kiến nào lựa chọn biện pháp này. Đối với nhóm những hộ ương – nuôi cá thể, có thể do thiếu nhân lực nên hệ thống công trình mà đặc biệt là đê bao không kịp khắc phục khi bị ảnh hưởng bởi triều cường và lũ. Ngược lại, với đội ngũ nhân lực đông, điều này không trở thành vấn đề đối với các trại nuôi thuộc các công ty. Liên quan đến các biện pháp kỹ thuật, đối với hoạt động ương – nuôi cá tra, việc bảo đảm chất lượng nước mà trước hết là ổn định độ mặn đóng vai trò rất quan trọng. Trên cơ sở này, ưu tiên thứ hai đối với cả 3 nhóm đối tượng khảo sát là khoan giếng để chủ động nguồn cấp nước ngọt và nuôi luân phiên để dành ao dự trữ nước ngọt trước tác động của xâm nhập mặn. Biện pháp thích ứng có tỷ lệ lựa chọn gần như thấp nhất so với những biện còn lại đối với cả 3 nhóm đối tượng khảo sát là nuôi những giống cá tra mới có khả năng chịu mặn cao hoặc tìm một đối tượng mới có hiệu quả kinh tế tương đương để thay thế. Có thể hiểu được điều này vì người nuôi nói chung thường xem xét vấn đề dựa trên thực tế vì hiện tại vẫn chưa thấy công bố nào về giống cá tra chịu mặn cao cho dù đã có những nghiên cứu của Đại học cần Thơ và Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, cũng như việc thay thế loài nuôi khác sẽ phải tốn chi phí thay đổi công trình nuôi và tìm thị trường mới. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN Dựa trên kết quả khảo sát, có thể đưa đến những kết luận và đề xuất sau: 1. Kết luận - Những hộ ương – nuôi cá thể, các quản lý trang trại nuôi cá của các công ty và những người nắm thông tin (cán bộ thuộc các cơ quan – ban ngành có liên quan và cán bộ quản lý địa Bảng 5. Biện pháp khắc phục (và dự kiến biện pháp khắc phục) các ảnh hưởng của xâm nhập mặn đối với hoạt động ương – nuôi cá tra Đối tượng khảo sát Đối với hoạt động nuôi cá tra (% ý kiến đánh giá) Nuôi đối tượng mới (% ý kiến đánh giá) Ngừng nuôi/ Chuyển đổi ngành nghề (% ý kiến đánh giá) Thay đổi kỹ thuật nuôi Thay đổi mùa vụ Củng cố công trình Biện pháp khác (khoan giếng và dành ao trữ nước ngọt) Người ương – nuôi (n=45) 75,56a (34/45) 15,56a (7/45) 24,44a (11/45) 15,56a (7/45) 11,11a (5/45) 0a (0/45) Quản lý trang trại (n=12) 83,33a (10/12) 8,33a (1/12) 0a (0/12) 41,67a (5/12) 12,67a (2/12) (Không khảo sát) Người am hiểu (n=40) 90a (36/40) 12,5a (5/40) 65b (26/40) 25a (10/40) 10a (4/40%) 0a (0/40) Ghi chú: Trong cùng một cột, những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái giống nhau chỉ ra sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), những tỷ lệ có số mũ là các chữ cái khác nhau chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9 phương) tại Sóc Trăng đã nhận thức được ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn đến hoạt động ương – nuôi cá tra. Với tỷ lệ lớn nhất ở cả 3 nhóm, tất cả đều cho rằng đã có những bất thường – cực đoan về khí hậu – thời tiết xảy ra ở mức độ nào đó và xâm nhập mặn là vấn đề được quan tâm – lo ngại nhiều nhất. - Trong 5 đến 10 năm đến, xâm nhập mặn được đánh giá vấn đề đưa đến mối lo ngại cao nhất đối với hoạt động ương – nuôi cá tra ở tất cả các nhóm đối tượng. Đa số những người được khảo sát đều cho rằng tương đối khó khăn trong việc khắc phục vấn đề này. Bên cạnh đó, biến động nhiệt độ theo thời gian, thời tiết thất thường, được quan tâm nhiều hơn bởi những người nắm thông tin nhưng không được đánh giá cao bởi nhóm những đối tượng trực tiếp sản xuất. - Thay đổi kỹ thuật ương – nuôi cá tra (giảm mật độ, tăng cường sức đề kháng cho cá nuôi, nuôi theo quy trình khép kín và giảm cho ăn để hạn chế thay nước khi bị xâm nhập mặn,) được cả 3 nhóm xem như là biện pháp thích ứng quan trọng nhất trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn. 2. Đề xuất ý kiến - Mở rộng nghiên cứu đối với nhóm hộ nuôi đáp ứng nhu cầu địa phương tại huyện Cù Lao Dung. - Nghiên cứu nên được tiếp tục theo khía cạnh xây dựng khả năng thích ứng (với biến đổi khí hậu – xâm nhập mặn) cho hoạt động ương – nuôi cá tra tại Sóc Trăng. Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được thực hiện trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ GD&ĐT “Nghiên cứu ảnh hưởng xâm nhập mặn đến nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus Sauvage, 1878) tại Sóc Trăng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Chi cục thống kê tỉnh Sóc Trăng (2018). “Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2018”. Nhà Xuất bản Thống Kê. 2. Nguyễn Chí Lâm, Đỗ Thị Thanh Hương, Vũ Nam Sơn và Nguyễn Thanh Phương (2011). “Ảnh hưởng của độ mặn lên thay đổi sinh lý và tăng trưởng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giống”. Tạp chí Khoa học 2011, số 17a các trang 60-69, Trường Đại học Cần Thơ 3. Sở NN&PTNT Bến Tre (Ben Tre DARD) (2012). “Báo cáo tình hình nuôi cá tra năm 2011 và kế hoạch cho năm 2012”. Tiếng Anh 4. Anh Lam Nguyen, Minh Hoang Truong, Johan AJ Verreth, Rik Leemans, Roel H Bosma and Sena S De Silva (2015). “Exploring the climate change concerns of striped catfi sh producers in the Mekong Delta, Vietnam”. SpringerPlus (2015) 4:46. (DOI 10.1186/s40064-015-0822-0) 5. Kam, S.P., Badjeck, M.C., The, L., The, L., Tran, N., (2012). “Autonomous adaptation to climate change by shrimp and catfi sh farmers in Vietnam’s Mekong River delta”. WorldFish Working Paper: 2012-24. 6. MARD (Ministry of Agriculture and rural Development), (2008). “Action plan framework for adaptation and mitigation of climate change of the agriculture and rural development sector period 2008-2020”. MARD, Ha Noi, Vietnam 7. Phan, Lam T., Bui, Tam M., Nguyen, Thuy T.T., Gooley, G.J., Ingram, B.A., Nguyen Hao V., Nguyen Phuong T. De Silva Sena S., (2009). “Current status of farming practices of striped catfi sh, Pangasianodon hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam”. Aquaculture, 296, 227-236. 8. Ram C. Bhujel, (2008). “Statistics for aquaculture”. Asian Institute of Technology (AIT). Wiley-Blackwell. Trang web 9. https://soctrang.gov.vn/Default.aspx?sname=ubnd-stg&sid=4&pageid=467&catid=54254&catname=vi-tri- dia-ly; truy cập ngày 10-2-2020.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_xam_nhap_man_va_thoi_tiet_cuc_doan_den_hoat_do.pdf