Ảnh hưởng của rong câu (Gracilaria tenuistipitata) và rong nho (Caulerpa lentillifera) lên chất lượng nước, sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong mô hình nuôi kết hợp
TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của hai loài rong khác nhau lên chất lượng nước, sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Tôm được nuôi trong 60 ngày với 3 nghiệm thức: nghiệm thức 1 (đối chứng) nuôi tôm đơn; nghiệm thức 2 (tôm - Rong câu Gracilaria tenuistipitata); nghiệm thức 3 (tôm - rong nho Caulerpa lentillifera). Hai loài rong được nuôi trong bể nuôi tôm với mật độ 2 kg/m3; mật độ tôm là 50 con/m3. Kết quả cho thấy chất lượng nước tốt hơn ở các nghiệm thức 2 và 3 với hàm lượng TAN, NO2-, NO3- và PO43- thấp hơn so với nghiệm thức 1. Nghiệm thức 3 tôm có tỷ lệ sống, năng suất cao hơn so với nghiệm thức 1 nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Nghiệm thức 2 cho kết quả tốt nhất (có tăng trưởng cao nhất, tỷ lệ sống cao nhất, năng suất tôm cao nhất) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05)="" so="" với="" nghiệm="" thức="" 1.="" rong="" câu="" gracilaria="" tenuistipitata="" được="" khuyến="" cáo="" sử="" dụng="" trong="" mô="" hình="" nuôi="" kết="" hợp="" với="" tôm="" thẻ="" chân="">
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của rong câu (Gracilaria tenuistipitata) và rong nho (Caulerpa lentillifera) lên chất lượng nước, sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) trong mô hình nuôi kết hợp
độ này nằm trong khoảng thích hợp cho tôm và rong phát triển. Hàm lượng DO >5 ppm; pH vào sáng sớm dao động từ 7,6 - 7,9 và buổi chiều từ 7,9 - 8,2; độ kiềm từ 110-120 mg/l đều phù hợp cho sự phát triển của tôm. Nghiên cứu của Whestone et al. (2002) [25] cho rằng DO thích hợp là > 5 mg/L, pH từ 7,6 - 9. Ebeling et al. (2006) [16] chỉ ra rằng độ kiềm thích hợp từ 100 - 150 mg/l. Cường độ ánh sáng từ 2.100 - 14.000 lux phù hợp cho sự phát triển của rong. Theo Nguyễn Hữu Đại và cộng sự (2006) [3], rong nho có thể sinh trưởng và phát triển tốt trong khoảng cường độ ánh sáng khá rộng từ 50 đến 250 µmol.s-1.m-2 (≈ 2.700 - 13.500 lux). Còn theo Guo et al. (2014) [17], ánh sáng tối ưu cho rong nho là 40 µmol.s-1.m-2 (≈ 2.160 lux). Theo Lê Như Hậu và Nguyễn Hữu Đại (2010) [4], các loài rong câu (Gracilaria spp.) có khả năng thích nghi rộng với cường độ ánh sáng từ 5.000 đến 20.000 lux. Nghiên cứu của Yu et al. (2013) [27] cho rằng ánh sáng tối ưu cho sinh trưởng của rong câu là từ 60 -130 µmol.s-1.m-2(≈ 3.240 - 7.020 lux). Bảng 3. Các thông số về chất lượng nước Chỉ tiêu Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 TAN (mg/l) 0,93 ± 0,361b 0,13 ± 0,023a 0,14 ± 0,037a NO2 - (mg/l) 0,85 ± 0,054b 0,25 ± 0,026a 0,27 ± 0,037a NO3 - (mg/l) 0,51 ± 0,076 b 0,14 ± 0,015a 0,16 ± 0,048a PO4 3- (mg/l) 0,62 ± 0,132b 0,16 ± 0,015a 0,15 ± 0,035a Số liệu trình bày là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (SD). Trong cùng một hàng, các giá trị trung bình có chữ cái viết kèm bên trên khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Kết quả bảng 3 cho thấy hàm lượng TAN, NO2 - , NO3 - và PO4 3- của nghiệm thức NT2 và NT3 thấp nhất, của nghiệm thức NT1 cao nhất. Sự khác nhau giữa nghiệm thức NT2 và NT3 không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05), giữa nghiệm thức NT2, NT3 và 1 có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Vậy, mô hình nuôi kết hợp tôm với rong biển có các hàm lượng muối dinh dưỡng ni-tơ, phốt-pho thấp hơn có ý nghĩa so với các hàm lượng của mô hình tôm nuôi đơn (P < 0,05). Kết quả thí nghiệm hiện tại phù hợp với nhận định của các nghiên cứu trước, mô hình nuôi tôm kết hợp với rong câu giúp duy trì được chất lượng nước tốt hơn và thân thiện với môi trường. Chất lượng nước ở các mô hình nuôi kết hợp có hàm lượng hợp chất đạm (TAN, NO2 -, NO3 - và TN), photpho (PO4 3- và TP) và COD thấp hơn nhiều (P < 0,05) so với nghiệm thức nuôi đơn [1, 8]. Nguyễn Quang Huy và cộng sự (2016) [6] sử dụng rong câu chỉ vàng (G. asiatica) nuôi kết hợp với tôm thẻ chân trắng, bể nuôi có hàm lượng TAN và NO2 - thấp hơn có ý nghĩa so với bể nuôi tôm đơn, rong câu chỉ vàng còn có khả năng hấp thụ 79,5 % PO4 3- và 78,4 % NH3 sau thời gian 2 giờ và tốc độ lọc đạt 97,7% PO4 3- và 87,4 % NH3 sau 4 giờ thí nghiệm. Tốc độ loại bỏ TAN đạt 31,2% sau 2 giờ. Rong nho (Caulerpa lentillifera) được nuôi kết hợp với cá hay kết hợp với ốc hương cho thấy có tác dụng hiệu quả trong xử lý nước thải [11, 12]. Nuôi kết hợp rong nho, hải sâm và ốc hương cũng được thực hiện cho kết quả tích cực đối với hấp thụ chất thải và sản lượng mỗi loài [15]. 2. Tăng trưởng của tôm Hình 1 và Bảng 3 cho thấy khối lượng tôm vào ngày nuôi 15 tương tự giữa các nghiệm thức đạt trung bình từ 2,8 - 3,4 g/con. Sau 30 ngày nuôi, tôm có sự chênh lệch về khối lượng, trong đó, khối lượng nhỏ nhất ở nghiệm thức 1 (đối chứng) và lớn nhất là nghiệm thức 2 6 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 (nuôi kết hợp với rong câu). Đến lúc kết thúc thí nghiệm, tôm có khối lượng từ 11,26-12,24 g/con. Ở nghiệm thức 1 (tôm nuôi đơn), tôm tăng trưởng chậm nhất với khối lượng cá thể trung bình là 11,26 ± 0,15 g/con và chiều dài cá thể trung bình là 10,36 ± 0,074 cm. Tôm kết hợp với rong nho (NT3) có khối lượng cá thể trung bình là 11,8 ± 0,089 g/con; chiều dài trung bình 11,04 ± 0,102 cm. Kiểm tra ANOVA với phép thử Duncan cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa về khối lượng và chiều dài tôm giữa nghiệm thức 1 (đối chứng) với nghiệm thức 2 và nghiệm thức 3. Nghiệm thức 2 (nuôi kết hợp tôm với rong câu) cho khối lượng và chiều dài cao nhất (12,24 ± 0,213 g/con; 11,26 ± 0,131 cm tương ứng). Hình 1. Tăng trưởng khối lượng của tôm. Tương tự, tốc độ sinh trưởng theo ngày (DGR) và sinh trưởng đặc trưng (SGR) trung bình của tôm dao động lần lượt là từ 0,17- 0,19 g/ngày và 4,01 - 4,15%/ngày. Kết quả thống kê với phép kiểm định Duncan cho thấy nghiệm thức NT2 (tôm kết hợp với rong câu) đạt tốc độ tăng trưởng DGR cao nhất và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P< 0,05) so với nghiệm thức tôm nuôi đơn (NT1). Tuy nhiên, không có sự khác biệt (P > 0,05) về tăng trưởng giữa các nghiệm thức nuôi kết hợp NT2 và NT3. Bảng 4. Tăng trưởng của tôm sau 60 ngày Chỉ tiêu Nghiệm thức NT1 (Tôm nuôi đơn) NT2 (Tôm-Rong câu) NT3 (Tôm-Rong nho) KL đầu (g) 1,01 ± 0,031 1,01 ± 0,031 1,01 ± 0,031 KL cuối (g) 11,26 ± 0,150a 12,24 ± 0,213b 11,8 ± 0,089b DGR (g/ngày) 0,17 ± 0,002a 0,19 ± 0,003b 0,18 ± 0,001b SGR (%/ngày) 4,01 ± 0,022a 4,15 ± 0,028b 4,09 ± 0,012b CD đầu (cm) 5,2 ± 0,151 5,2 ± 0,156 5,2 ± 0,154 CD cuối (cm) 10,36 ± 0,074a 11,26 ± 0,131b 11,04± 0,102,b KL: Khối lượng; CD: Chiều dài Số liệu trình bày là giá trị trung bình ± sai số chuẩn (SE). Trong cùng một hàng, các giá trị trung bình có chữ cái viết kèm bên trên khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 7 3. Tỷ lệ sống và năng suất tôm Bảng 5. Tỷ lệ sống và năng suất tôm nuôi Chỉ tiêu Nghiệm thức NT1 (Tôm nuôi đơn) NT2 (Tôm-Rong câu) NT3 (Tôm-Rong nho) Tỷ lệ sống (%) 65,6 ± 0,678a 74,8 ± 0,860b 68,6 ± 1,36a Năng suất (kg/m3) 1,56 ± 0,074a 2,1 ± 0,096b 1,7± 0,063a Số liệu trình bày là giá trị trung bình ± sai số chuẩn (SE). Trong cùng một hàng, các chữ cái viết kèm bên trên khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Cuối thí nghiệm, tỷ lệ sống của tôm trung bình đạt từ 65,6 đến 74,8%. Tỷ lệ sống của tôm (kết hợp với rong câu) ở NT2 cao nhất (74,8 ±0,860%) và có sự khác biệt thống kê với 2 nghiệm thức còn lại NT1 và NT3 (P< 0,05). Nghiệm thức nuôi đơn tôm NT1 có tỷ lệ sống thấp nhất (65,6 ± 0,678%), NT3 (tôm kết hợp với rong nho) cao thứ 2, đạt 68,6 ± 1,36% và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) giữa 2 nghiệm thức này. Tương tự, năng suất tôm thẻ sau 60 ngày nuôi đạt từ 1,56 - 2,1 kg/m3. Trong đó, nghiệm thức NT2 (tôm kết hợp với rong câu) đạt cao nhất và có sự khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05) với các nghiệm thức còn lại. Kết quả này tương tự như kết quả nghiên cứu của Izzati (2011) [18] sử dụng hai loại rong biển Sargassum plagyophyllum và Gracilaria verrucosa nuôi kết hợp với tôm sú (Penaeus monodon) trong thời gian 30 ngày cho thấy tôm kết hợp với rong có sinh trưởng, tỷ lệ sống cao hơn nuôi đơn nhưng tôm kết hợp với rong câu tốt hơn rong mơ Sargassum plagyophyllum. Mai và cộng sự (2010) [20] cho rằng tôm (Penaeus latisulcatus) nuôi kết hợp rong mơ Sargssum plagyophyllum có tăng trưởng cao hơn nuôi đơn nhưng không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Nghiên cứu khác nhận định rằng rong câu (G. cervicornis) có thể là nguồn thức ăn bổ sung trong nuôi kết hợp với tôm thẻ chân trắng (L. vannamei), giúp tôm tăng trưởng nhanh [21]. Tương tự, Nguyễn Quang Huy và cộng sự (2016) [6] nhận thấy tôm thẻ chân trắng nuôi kết hợp với rong câu chỉ vàng đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với tôm nuôi đơn. Như vậy, từ kết quả nghiên cứu này và từ các nghiên cứu tương tư, có thể thấy sự hiện diện của rong biển trong mô hình nuôi ghép tôm và rong đã thúc đẩy tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 1. Kết luận - Mô hình nuôi kết hợp tôm với rong biển có hàm lượng muối dinh dưỡng ni-tơ, phốt-pho thấp hơn có ý nghĩa so với mô hình nuôi đơn tôm (P < 0,05). - Mô hình nuôi tôm thẻ kết hợp với rong câu cho kết quả sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của tôm cao nhất (P < 0,05). 2. Đề xuất ý kiến - Áp dụng kết quả thí nghiệm vào điều kiện ao nuôi để đánh giá hiệu quả kinh tế, từ đó, có thể đưa ra các khuyến cáo thực tế. . TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Hoàng Vinh, Lam Mỹ Lan và Trần Ngọc Hải, 2019. Ảnh hưởng của các mức cho ăn khác nhau lên chất lượng nước, tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm (Penaeus monodon) nuôi kết hợp với rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 55(3B): 111-122. 8 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 2015. Quy hoạch nuôi tôm nước lợ vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Báo cáo tổng hợp, Hà Nội, 139 trang. 3. Nguyễn Hữu Đại, Nguyễn Xuân Hòa, Nguyễn Xuân Vỵ, Phạm Hữu Trí, Nguyễn Thị Lĩnh, 2006. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường đối với sự phát triển của rong nho biển (Caulerpa lentillifera). Tuyển tập nghiên cứu biển, 2006, XV: 146-155. 4. Lê Như Hậu và Nguyễn Hữu Đại, 2010. Rong câu Việt Nam - Nguồn lợi và sử dụng. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 5. Đinh Thanh Hồng, (2016). Biến động sinh lượng và tác động của các loài rong xanh (Cladophoraceae) trong đầm nuôi tôm quảng canh cải tiến. Luận văn cao học, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ. 6. Nguyễn Quang Huy, Lê Văn Khôi, Đặng Văn Quát, Tăng Thị Thảo, Nguyễn Thị Lệ Thủy, (2016). Nghiên cứu khả năng hấp thu dinh dưỡng của rong câu chỉ vàng (Gracilaria asiatica) và các hình thức nuôi kết hợp giữa tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) với rong câu chỉ vàng. Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, 6: 104 - 110 7. Vũ Văn In, Nguyễn Hữu Ninh, Lê Văn Nhân, Trần Thế Mưu, Lê Xân, Nguyễn Phương Toàn, Vũ Văn Sáng, Nguyễn Quang Trung (2012). Ảnh hưởng của thức ăn tới khả năng sinh sản của tôm chân trắng bố mẹ sạch bệnh (Litopenaeus vannamei). Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, 66-70p. 8. Nguyễn Minh Kha, Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2017. Hiệu quả của mô hình nuôi kết hợp tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) với các mật độ rong câu (Gracilaria sp.) khác nhau. Tạp chí khoa học và công nghệ Nông nghiệp. Tập 1 (2). Tr 303-312. 9. Trần Viết Mỹ (2009). Cẩm nang nuôi tôm chân trắng (Penaeus vannamei). Trung tâm Khuyến nông Tp. Hồ Chí Minh. 10. Nguyễn Hoàng Vinh và Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2019. Khảo sát sinh lượng của rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata) trong ao nuôi tôm quảng canh cải tiến ở tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 1: 88-97. Tiếng Anh 11. Bambaranda, B.V.A.S.M.; Tsusaka, K.R., Chirapart, A., Salin, T.W., Sasaki, N. 2019. Capacity of Caulerpa lentillifera in the Removal of Fish Culture Effl uent in a Recirculating Aquaculture System. Proceses 2019. 12. Chaitanawisuti, N., Santhaweesuk W., Kritsanapunta S., 2011. Performance of the seaweeds Gracilaria salicornia and Caulerpa lentillifera as biofi lters in a hatchery scale recirculating aquaculture system for juvenile spotted babylons (Babylonia areolata). Aquaculture international. 13. Cruz-Suárez, L. E.; Tapia-Salazar, M.; Nieto-Lopez, M. G.; Guajardo-Barbosa, C.; Ricque-Marie, D., 2008. Comparison of Ulva clathrata and the kelps Macrocystis pyrifera and Ascophyllum nodosum as ingredients in shrimp feeds. Aquaculture Nutr., 15 (4): 421– 430. 14. Cruz-Suárez, L. E., A. Leónb, A. Peña-Rodrígueza, G. Rodríguez-Peñac, B. Molld, and D. RicqueMariea. 2010. Shrimp/Ulva co-culture: A sustainable alternative to diminish the need for artifi cial feed and improve shrimp quality. Aquaculture 301 (1-4):64-68. 15. Dobson, G.T., Duy, N.D.Q, Paul, N.A., Southgate, P.C., 2020. Assessing potential for integrating sea grape (Caulerpa lentillifera) culture with sandfi sh (Holothuria scabra) and Babylon snail (Babylonia areolata) co- culture. Aquaculture / Vol. 522, Article No. 735153. 16. Ebeling JM, Timmons MB, Bisogni JJ (2006). Engineering analysis of the stoichiometry of photoautotrophic, Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9 autotrophic, and heterotrophic control of ammonia-nitrogen in aquaculture production systems. Aquaculture 257: 346–358. 17. Guo, H., Yao J., Sun Z., Duan D., 2014. Effect of temperature, irradiance on the growth of the green alga Caulerpa lentillifera (Bryopsidophyceae, Chlorophyta) 18. Izzati, M., (2011). The role of seaweeds Sargassum polycistum and Gracilaria verrucosa on growth performance and biomass production of tiger shrimp (Penaeus monodon Fabr). Journal of Coastal Development, 4: 235 – 241 19. Jones, A. 1995. Manipulation of prawn farm effl uent fl ow rate and residence time, and density of biofi lters to optimise the fi ltration effi ciency of oysters (Saccostrea commercialis) and macroalgae, Gracillaria edulis. Depertment of System Ecology, Stockholm, University, Sweden. 20. Mai H., Fotedar R., and Fewtrell J., 2010. Evaluation of Sargassum sp. as a nutrient-sink in an integrated seaweed-prawn (ISP) culture system. Aquaculture 310 (1-2):91-98. 21. Marinho-Soriano E., Camara M.R., Cabral T.D.M., and Carneiro M.A.A., 2007. Preliminary evaluation of the seaweed Gracilaria cervicornis (Rhodophyta) as a partial substitute for the industrial feeds used in shrimp (Litopenaeus vannamei) farming. Aquaculture Research. 38(2): 182-187. 22. Neori A., Thierry C., Max T., Alejandro H. B., George P. K., Christina H., Muki S., and Charles Y., 2004. Integrated aquaculture: rationale, evolution and state of the art emphasizing seaweed biofi ltration in modern mariculture. Aquaculture 231 (1-4):361-391. 23. Neori A. 2008. Essential role of seaweed cultivation in integrated multi-trophic aquaculture farms for global expansion of mariculture: an analysis. Journal of Applied Phycology 20:567-570. 24. Sirirustananun, N., Chen, J.C., Lin, Y.C., Yeh, S.T., Liou, C.H., Chen, L.L., Sim, S., Chiew, S., 2011. Dietary administration of a Gracilaria tenuistipitata extract enhances the immune response and resistance against Vibrio alginolyticus and white spot syndrome virus in the white shrimp Litopenaeus vannamei. Fish Shellfi sh Immun. 31 (6), 848–855. 25. Whestone, J. M., Treece, G. D. & Stokes, A. D., 2002. Opportunities and constrains in marine shrimp farming. Southern Regional Aquaculture Center (SRAC) publication, No. 2600 USDA. 26. Wu, R. 1995. The environmental impact of marine fi sh culture: toward a sustainable future. Mar. Poll. Bull. 31, 159-166. 27. Yu, C.H., Lim, P.E., Phang, S.M, 2013. Effects of irradiance and salinity on the growth of carpospore - derived tetrasporophytes of Gracilaria edulis and Gracilaria tenuistipitata var liui (Rhodophyta). Journal of Applied Phycology 25, 787- 794.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_rong_cau_gracilaria_tenuistipitata_va_rong_nho.pdf