Ảnh hưởng của nước thải từ ương tôm giống tới tỷ lệ sống, sinh trưởng và sinh sản của Artemia
TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành gồm 4 nghiệm thức tương ứng với 4 tỷ lệ nước thải khác nhau từ sản xuất tôm giống: 100% nước thải; 25% nước thải và 75% nước sạch; 50% nước thải và 50% nước sạch; 100% nước sạch. Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của lượng nước thải sử dụng đến tỷ lệ sống, sinh trưởng và một số chỉ tiêu sinh sản của Artemia. Từ đó, đánh giá khả năng nuôi sinh khối Artemia bằng nguồn nước thải từ sản xuất tôm giống. Kết quả cho thấy tỷ lệ nước thải ảnh hưởng rõ ràng tới tỷ lệ sống, chiều dài toàn thân, sức sinh sản của Artemia. Sau 14 ngày nuôi, tỷ lệ sống, chiều dài toàn thân, sức sinh sản khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức(P<0,05). tỷ="" lệ="" sống,="" sức="" sinh="" sản="" và="" chiều="" dài="" toàn="" thân="" cao="" nhất="" lần="" lượt="" là="" 45,7="" ±="" 5,36%,="" 62,2="" ±="" 19,77="" trứng/con="" cái,="" 8,1="" ±="" 0,22="" mm="" ở="" nghiệm="" thức="" 50%="" nước="" thải="" và="" 50%="" nước="" sạch.="" tỷ="" lệ="" sống="" thấp="" nhất="" (24,9="" ±="" 2,81%)="" ở="" nghiệm="" thức="" 100%="" nước="" thải.="" sức="" sinh="" sản="" thấp="" nhất="" 40,4="" ±="" 17,44="" trứng/con="" cái="" ở="" nghiệm="" thức="" 75%="" nước="" sạch="" và="" 25%="" nước="" thải.="" chiều="" dài="" toàn="" thân="" thấp="" nhất="" 6,9="" ±="" 0,48="" mm="" ở="" nghiệm="" thức="" 100%="" nước="" sạch.="" tuy="" nhiên,="" tỷ="" lệ="" nước="" thải="" ảnh="" hưởng="" không="" lớn="" tới="" tốc="" độ="" sinh="" trưởng,="" tỷ="" lệ="" con="" cái="" mang="" trứng="" nghỉ="" của="" artemia.="" sau="" 14="" ngày="" nuôi,="" tốc="" độ="" sinh="" trưởng="" dao="" động="" từ="" 0,03="" đến="" 0,04%/ngày,="" tỷ="" lệ="" con="" cái="" có="" trứng="" nghỉ="" với="" con="" cái="" không="" có="" trứng="" dao="" động="" từ="" 56,7%="" đến="" 76,7%,="" cả="" hai="" thông="" số="" này="" đều="" khác="" biệt="" không="" có="" ý="" nghĩa="" thống="" kê="" (p="">0,05). Nhìn chung, Artemia có thể sinh trưởng và sinh sản tốt khi nuôi trong nước thải từ sản xuất tôm giống. Trong phạm vi nghiên cứu, phối hợp 50% nước thải và 50% nước sạch để nuôi Artemia là phù hợp nhất0,05).>
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của nước thải từ ương tôm giống tới tỷ lệ sống, sinh trưởng và sinh sản của Artemia
Nghiệm thức Chỉ tiêu 100%NT 50%NT-50%NS 25%NT-75%NS 100%NS Nhiệt độ (ºC) Sáng 25,86 ± 0,63 25,86 ± 0,63 25,86 ± 0,63 25,86 ± 0,63 Chiều 28,04 ± 0,24 28,04 ± 0,24 28,04 ± 0,24 28,04 ± 0,24 pH Sáng 7,7 – 8,5 7,8 – 8,4 8,5 – 8,6 8,2 – 8,5 Chiều 7,3 – 8,9 7,8 – 8,4 8,5 – 8,6 8,4 – 8,5 NH3 (ppm) Sáng 0,11 ± 1,10 0,04 ± 0,02 0,03 ± 0,01 0,02 ± 0,01 Chiều 0,11 ± 1,10 0,04 ± 0,02 0,03 ± 0,01 0,02 ± 0,01 Số liệu được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (SD). Các yếu tố môi trường theo dõi đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển và sinh sản của Artemia. Do thí nghiệm được bố trí trong nhà có mái che nên nhiệt độ của các thùng nuôi không có sự sai khác. Nhiệt độ trung bình buổi sáng (25,86 ± 0,63ºC) dao động trong khoảng 25,0 – 27,0ºC. Nhiệt độ trung bình buổi chiều (28,04 ± 0,24ºC) dao động từ 27,5ºC đến 28,5ºC. Đây là khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của Artemia. Bởi vì, khoảng nhiệt độ tối ưu cho sự sinh trưởng, phát triển và sinh sản của Artemia là từ 24,0 đến 35,0ºC [1]. Trong quá trình thí nghiệm nguồn nước thải được cấp vào thùng nuôi 2 lần một ngày, đồng thời một thể tích nước tương đương được rút ra khỏi thùng. Do đó, pH trong bể nuôi Artemia ít có sự biến động. pH luôn dao động trong khoảng 7,4 – 8,5. Nhìn chung pH tương đối ổn định và ít biến động giữa sáng chiều của từng nghiệm thức. Kết quả pH trong nghiên cứu hoàn toàn phù hợp cho sự sinh trưởng, phát triển và sinh sản của Artemia. Bởi vì, khoảng pH thích hợp cho sự sinh trưởng của Artemia từ các tài liệu nghiên cứu trước đó là nằm trong khoảng từ 7 – 9 [4]. Hàm lượng NH3 ở các nghiệm thức có sự khác biệt rõ ràng. NH3 cao nhất ở nghiệm thức 100% nước thải (0,11 ± 1,10 ppm). NH3 của các nghiệm thức còn lại khá tương đồng dao động từ 0,02 – 0,04 ppm. NH3 của nghiệm thức 100% nước thải cao có thể do hàm lượng chất hữu cơ trong nước thải cao, mật độ Artemia thấp lọc không hết chất hữu cơ, lượng thức ăn còn dư thừa. Mức NH3 ở nghiệm thức 100% nước thải ảnh hưởng đáng kể đến sinh trưởng, phát triển và sinh sản của Artemia. 2. Ảnh hưởng của nước thải từ sản xuất tôm giống đến tỷ lệ sống của Artemia Kết quả tỷ lệ sống ở tất cả các nghiệm thức từ khi thả giống đến 15 ngày nuôi trong thí 44 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 nghiệm 1 được thể ở Hình 1. Tỷ lệ sử dụng nước thải từ ương tôm giống ảnh hưởng rõ ràng tới tỷ lệ sống của Artemia. Tỷ lệ sống của Artemia trong 4 nghiệm thức từ khi bắt đầu nuôi cho tới khi kết thúc thí nghiệm đều có xu hướng giảm dần theo thời gian nuôi. Ngày nuôi thứ 3 có tỷ lệ sống cao nhất ở tất cả các nghiệm thức. Trong đó, tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch (86,13 ± 8,45%), tiếp đến là nghiệm thức 100% nước sạch (79,20 ± 11,01%) sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với hai nghiệm thức còn lại. Tỷ lệ sống của Artemia ở ngày nuôi thứ 15 là giảm đáng kể ở tất cả các nghiệm thức. Tỷ lệ sống của nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch là cao nhất (45,67 ± 5,36%) có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) so với nghiệm thức còn lại. Ngược lại, nghiệm thức 100% nước thải có tỷ lệ sống là thấp nhất (24,93 ± 2,81%) và thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê với nghiệm các nghiệm thức khác (P<0,05). Hình 1: Tỷ lệ sống (%) của Artemia ở ngày nuôi khác nhau của thí nghiệm Các chữ cái trên các cột khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Tỷ lệ sống của Artemia trong nghiên cứu thấp hơn rất nhiều so với các nghiên cứu trước đó. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ nuôi đến tỷ lệ sống Artemia franciscana nuôi trong ao đất tại Cam Ranh, cùng mật độ nuôi là 50 con/lít có tỷ lệ sống ở ngày nuôi thứ 15 là cao nhất đạt (81,67 ± 3,51%) [5]. Kết quả thấp hơn có thể do: nghiên cứu sử dụng nước thải từ sản xuất tôm giống để nuôi Artemia, môi trường nước thải không tối ưu cho sự phát triển của Artemia, trong nước thải không có (vi tảo). Trong khi đó nghiên cứu ảnh hưởng của các loại tảo đến tỷ lệ sống Artemia franciscana nuôi trong ao đất tại Cam Ranh có tảo phát triển rất mạnh, môi trường nước thích hợp cho Artemia phát triển. Đặc biệt, vi tảo là một trong những loài thức ăn ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của Artemia. Nghiệm thức bổ sung vi tảo có tỷ lệ sống của Artemia cao hơn so với các nghiệm thức khác [5]. 3. Ảnh hưởng của nước thải từ sản xuất tôm giống đến sinh trưởng của Artemia 3.1. Chiều dài toàn thân của Artemia. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ sử dụng nước xi phông từ nuôi tôm giống chỉ ảnh hưởng tới chiều dài toàn thân của Artemia ở cuối đợt thí nghiệm. Chiều dài toàn thân của Artemia có xu hướng tăng dần theo ngày nuôi. Kích thước về chiều dài toàn thân của Artemia ở ngày đầu bố trí thí nghiệm của mỗi nghiệm thức tương đối đồng đều và dao động trong khoảng (0,64 ± 0,08 mm), không sai khác có ý nghĩa thống kê Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 45 giữa các nghiệm thức (P>0,05). Từ ngày nuôi thứ 4 trở đi thì bắt đầu có sự sai khác về chiều dài giữa các nghiệm thức, trong đó chiều dài của Artemia ở nghiệm thức 100% nước thải là nhỏ nhất (1,31 ± 0,09 mm), sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) với các nghiệm thức còn lại. Đặc biệt, từ ngày nuôi thứ 6 đến ngày nuôi thứ 14 thì kích thước về chiều dài có sự thay đổi nhanh, ở nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch có kết quả lớn nhất (8,07 ± 0,22 mm), nghiệm thức 100% nước sạch luôn có kích thước nhỏ nhất (6,93 ± 0,48 mm), sai khác có ý nghĩa thống kê (P< 0,05) với các nghiệm thức còn lại. Hai ngày nuôi đầu, Artemia mới thả quá trình lọc thức ăn còn kém, dinh dưỡng ít ảnh hưởng tới chiều dài cơ thể. Do đó, chiều dài của Artemia ở tất cả các nghiệm thức sai khác không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, những ngày nuôi tiếp theo, khả năng lọc thức ăn của Artemia tăng lên, lượng thức ăn được hấp thu qua quá trình ăn lọc đã ảnh hưởng tới chiều dài cơ thể. Nghiệm thức có hàm hượng hữu cơ cao hơn (50% nước thải và 50% nước sạch) luôn có chiều dài lớn hơn nghiệm thức 25% nước thải, 75% nước sạch và nghiệm thức 100% nước sạch. Hình 2: Kích thước về chiều dài (mm) của Artemia Các chữ cái trên các cột khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Sau 14 ngày nuôi, kích thước lớn nhất của Artemia trong nghiên cứu ở nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch là 8,07 ± 0,22 mm lớn hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu trước. Theo Trương Sỹ Kỳ và Nguyễn Tấn Sỹ, sau 20 ngày nuôi kích thước lớn nhất của loài Artemia franciscana nuôi ngoài ao ở Đồng Bò - Nha Trang đạt 8 mm [3]. Điều này cho thấy, Artemia nuôi trong nước thải từ sản xuất tôm giống sinh trưởng nhanh hơn so với nuôi ngoài ao. Điều này chứng tỏ nguồn nước thải từ sản xuất tôm giống có hàm lượng dinh dưỡng cao và phù hợp làm thức ăn cho Artemia. Artemia nuôi trong nước thải từ sản xuât tôm giống đảm bảo đủ thức ăn và sinh trưởng tốt. 3.2. Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài toàn thân của Artemia Kết quả nghiên cứu cho thấy, tốc độ sinh trưởng đặc trưng của Artemia ở các nghiệm thức tăng nhanh từ ngày nuôi thứ 2 đến ngày nuôi thứ 6 và sau đó giảm dần đến ngày nuôi thứ 14. Vào ngày nuôi thứ 6, tốc độ sinh trưởng đặc trưng của Artemia cao nhất (0,44 ± 0,03%/ ngày) ở nghiệm thức 100% nước thải, sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với 3 nghiệm thức còn lại. Từ ngày nuôi thứ 8 đến ngày nuôi thứ 14 tốc độ sinh trưởng đặc trưng của 4 nghiệm thức đều giảm, kết quả sai khác về sinh 46 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 trưởng đặc trưng về chiều dài của Artemia của các nghiệm thức đều không có ý nghĩa thống kê (P>0.05). Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng về chiều dài của Artemia ở nghiệm thức có cùng quy luật với các sinh vật khác là giai đoạn đầu tăng trưởng nhanh sau đó phát triển chậm lại. Nguyên nhân là do lúc này ấu trùng còn nhỏ, đang trong quá trình hình thành và phát triển cơ thể cho nên tất cả các nguồn dinh dưỡng, năng lượng đều tập trung cho sự sinh trưởng về chiều dài. Sau khi đạt đến một kích thước nhất định, nguồn năng lượng tích tũy lũy trong quá trình dinh dưỡng sẽ dịch chuyển dần từ tăng trưởng sang quá trình thành thục và sinh sản. Hình 3: Tốc độ sinh trưởng đặc trưng SGRL của Artemia Các chữ cái trên các cột khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Xu hướng phát triển chiều dài của Artemia trong thí nghiệm phù hợp với nghiên cứu trước. Theo Nguyễn Tấn Sỹ, tốc độ sinh trưởng của Artemia ở những ngày nuôi cuối cùng đều có xu hướng giảm xuống, thể hiện sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) giữa các nghiệm thức có độ mặn khác nhau [5]. 4. Ảnh hưởng của tỷ lệ sử dụng nước thải từ nuôi tôm giống đến khả năng mang trứng của Artemia Tỷ lệ sử dụng nước thải từ nuôi tôm giống có ảnh hưởng đến thời gian thành thục và tham gia sinh sản của Artemia. Ở nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch Artemia bắt cặp sớm nhất vào ngày nuôi thứ 8. Artemia ở 3 nghiệm thức còn lại bắt cặp muộn hơn dao động trong khoảng từ ngày nuôi từ 9 đến 10 ngày nuôi Bảng 2. Qua đó cho thấy, ở nghiệm thức có tỷ lệ sử dụng nước 50% nước thải và 50% nước sạch thì Artemia thành thục tham gia sinh sản sớm hơn. Do đó, Artemia ở nghiệm thức này thành thục sớm hơn và đó cũng là tiền đề cho sự xuất hiện Nauplius sớm nhất vào ngày nuôi 11. Thời điểm xuất hiện nauplius ở các nghiệm thức còn lại khá tương đồng và không sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Như vậy, Artemia cái trong thí nghiệm đạt 12 ngày tuổi đều đẻ con ở tất cả các nghiệm thức Bảng 2. Tỷ lệ sử dụng nước thải từ sản xuất tôm giống để nuôi Artemia anh hưởng rõ ràng tới số lượng trứng/con cái nhưng ít ảnh hưởng tới số lượng phôi/con cái. Số lượng trứng của con cái ở nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch đạt cao nhất (62,22 ± 19,77 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 47 trứng/con cái), tiếp đến ở nghiệm thức 100% nước thải (49,08 ± 21,93 trứng/con cái) và thấp nhất ở nghiệm thức 25% nước thải và 75% nước sạch (40,38 ± 17,44 trứng/con cái) sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) (Bảng 2). Số lượng phôi/con cái ở các nghiệm thức khá tương đồng. Số lượng phôi của con cái của nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch cao nhất đạt (7,18 ± 16,11 số phôi/con), nghiệm thức 100% nước thải đạt thấp nhất (3,7 ± 14,40 số phôi/con), nhưng không sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Sức sinh sản của Artemia trong nghiên cứu tương đương và cao hơn so với kết quả nghiên cứu trước đó. Theo Nguyễn Tấn Sỹ, sức sinh sản số phôi/con cái/lần đẻ của Artemia nuôi ở độ mặn 50‰ đạt (48,11 ± 16,17 phôi/con cái) [5]. Ngược lại, Artemia cái trong nghiên cứu chủ yếu đẻ trứng, số lượng phôi rất thấp. Điều này phù hợp với đặc điểm sinh học của chúng. Artemia nuôi ở môi trường thuận lợi có độ mặn thấp thì sẽ đẻ con nhiều hơn đẻ trứng. Ngược lại, khi nuôi trong môi trường bất lợi hoặc độ mặn quá cao thì chúng chuyển đẻ trứng nghỉ nhiều hơn đẻ con. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Sau 15 ngày nuôi, tỷ lệ sống, chiều dài toàn thân, sức sinh sản của Artemia khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (P<0,05). Tỷ lệ sống, số trứng/con cái và chiều dài toàn thân cao nhất lần lượt là 45,67 ± 5,36%, 62,22 ± 19,77 trứng/con cái, 8,07 ± 0,22 mm ở nghiệm thức 50% nước thải với 50% nước sạch. Tỷ lệ sống thấp nhất 24,93 ± 2,81% ở nghiệm thức 100% nước thải. Sức sinh sản thấp nhất 40,38 ± 17,44 trứng/con cái ở nghiệm thức 75% nước sạch và 25% nước thải. Chiều dài toàn thân nhỏ nhất 6,93 ± 0,48 mm ở nghiệm thức 100% nước sạch. Có thể nuôi sinh khối Artemia trong nước thải từ sản xuất tôm giống. Trong phạm vi nghiên cứu, tỷ lệ phối hợp 50% nước thải và 50% nước sạch là phù hợp nhất để nuôi sinh khối Artemia Mô hình nghiên cứu còn nhỏ chỉ bố trí trong thùng xốp nên còn nhiều vấn đề hạn chế trong quá trình nuôi như: trong quá trình vệ sinh thùng xốp, thay nước hàng ngày, xi phông khó hơn, dễ bị vật bám, khó chùi rửa. Do đó, cần bố trí thí nghiệm trong bể Composite để giảm bớt những nhược điểm của thùng xốp. Cần thử nghiệm với loại Artemia có nguồn gốc từ Việt Nam (Artemia Vĩnh Châu), có thể nguồn Artemia nguồn gốc Việt Nam sẽ phù hợp với điều kiện môi trường tại Việt Nam hơn các loài Artemia nhập khẩu. Cần thêm thí nghiệm về nước thải của từng giai đoạn nuôi ấu trùng (Zoea – Mysis – Post) ảnh hưởng đến nuôi thu sinh khối Artemia. Nguồn nước thải từ những giai đoạn ấu trùng tôm nuôi khác nhau chứa hàm lượng và thành phần hữu cơ khác nhau. Nghiên cứu khả năng tái tuần hoàn nước thải sau khi sử dụng để nuôi Artemia để sử dụng trong sản xuất giống. Bảng 2: Một số chỉ tiêu về sinh sản của Artemia Nghiệm thức Chỉ tiêu 100%NT 50%NT-50%NS 25%NT-75%NS 100%NS Ngày bắt đầu bắt cặp (ngày) 9,67 ± 0,58ab 8,50 ± 0,50a 9,00 ± 0,50ab 10,17 ± 0,76b Ngày xuất hiện Nauplius (ngày) 12,67 ± 0,58b 11,50 ± 0,50a 12,00 ± 0,50ab 12,83 ± 0,29b Số trứng/con cái 49,08 ± 21,93b 62,22 ± 19,77c 40,38 ± 17,44a 45,72 ± 17,39ab Số phôi/con cái 3,7 ± 14,40a 7,18 ± 16,11a 4,73 ± 17,02a 5,73 ± 12,96a Số liệu được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn (SD). Các chữ cái trên cùng hàng khác nhau chỉ sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05). 48 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Thị Hồng Vân, Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Trần Thị Thanh Hiền, Trần Sương Ngọc, Trần Hữu Lễ (2005). Báo cáo khoa học Đề tài cấp Bộ “Nâng cao hiệu quả của việc nuôi sinh khối Artemia trên ruộng muối”, Mã số: B2005 – 31-94. Bộ giáo dục và Đào tạo. 2. Nguyễn Văn Hòa (Chủ biên), Nguyễn Thị Hồng Vân, Nguễn Thị Ngọc Anh, Phạm Thị Tuyết Ngân, Huỳnh Thanh Tới, Trần Hữu Lễ (2007). “Artemia – Nghiên cứu và ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản”. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 3. Trương Sỹ Kỳ và Nguyễn Tấn Sỹ (1999). “Nuôi sinh khối Artemia ở khu vực Đồng Bò – Nha Trang”. Tuyển tập Báo Cáo Khoa học Hội Nghị Sinh Học biển toàn quốc lần thứ IV, tập II: 948-951. 4. Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp (2006). Kỹ thuật nuôi Giáp xác. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 5. Nguyễn Tấn Sỹ, (2008) Báo cáo đề tài khoa học Đề tài cấp Bộ “Thử nghiệm nuôi thu sinh khối và thu trứng bào xác Artemia franciscana trong ao đất tại ruộng muối ở Cam Ranh, Khánh Hòa”. Mã số: B2007-13-18. Bộ giáo dục và Đào tạo. Tiếng Anh 6. Nguyen Van Hoa, Tat Anh Thu, Nguyen Thi Ngoc Anh and Huynh Thanh Toi, (2011). “Artemia franciscana Kellogg, 1906 production in earthen pond: Improved culture Techniques”. International Joural of Artemia Biology. Vol 1: page 13-28.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_nuoc_thai_tu_uong_tom_giong_toi_ty_le_song_sin.pdf