Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis) giai đoạn 20 đến 50 ngày tuổi
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của mật độ và độ mặn khác nhau lên tỷ lệ sống và
tăng trưởng của cá sặc rằn để làm cơ sở xây dựng quy trình ương đối tượng này, đồng thời
góp phần ổn định nuôi cá nước ngọt trong tình hình xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu
Long. Nghiên cứu gồm hai thí nghiệm: (1) ảnh hưởng của mật độ ương lên tỷ lệ sống và tăng
trưởng của cá sặc rằn và (2) ảnh hưởng của độ mặn lên tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá. Ở
thí nghiệm thứ nhất, cá sặc rằn có khối lượng 92,5 mg/con được ương với 3 nghiệm thức mật
độ là 3 con/L (NT1); 6 con/L (NT2) và 9 con/L (NT3) và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
Cá được ương trong hệ thống bể composite 35L. Kết quả sau 30 ngày ương cho thấy tỷ lệ
sống của cá dao động từ 74,9-86,9% và khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức, tỷ lệ sống
của cá đạt cao nhất (86,9%)ở nghiệm thức 3 con/L. Tăng trưởng hàng ngày của cá nhanh
nhất (60,1 mg/ngày) ở mật độ 3 con/L, khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Trong thí
nghiệm hai, cá có khối lượng 92,5 mg/con được ương 3 con/L với 4 nghiệm thức độ mặn là
0‰ (NT1); 3‰ (NT2); 6‰ (NT3) và 9‰ (NT4) và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Kết
quả sau 30 ngày ương cho thấy tỷ lệ sống của cá dao động từ 74,0-92,9%, khác biệt có có ý
nghĩa giữa các nghiệm thức, tỷ lệ sống của cá đạt cao nhất (92,9%) ở độ mặn 3‰. Tăng
trưởng hàng ngày của cá nhanh nhất (62,9 mg/ngày) ở độ mặn 3‰ và khác biệt có ý nghĩa
với các độ mặn cao hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis) giai đoạn 20 đến 50 ngày tuổi
Như vậy, các yếu tố nhiệt độ và pH đều nằm trong khoảng thích hợp đối với sự phát triển của cá sặc rằn giai đoạn 20 đến 50 ngày tuổi. Bảng 5. Biến động nhiệt độ, pH nước khi ương cá ở độ mặn khác nhau Chỉ tiêu Buổi Nghiệm thức độ mặn 0‰ 3‰ 6‰ 9‰ Nhiệt độ (oC) Sáng 27,0±0,29 26,5±0,08 26,8±0,20 26,5±0,09 Chiều 28,7±0,04 28,8±0,06 28,8±0,05 28,8±0,04 pH Sáng 7,56±0,01 7,24±0,06 7,17±0,16 7,21±0,05 Chiều 7,67±0,02 7,66±0,03 7,67±0,03 7,61±0,05 Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn 3.2.2. Ảnh hưởng của độ mặn lên tỷ lệ sống của cá Tỷ lệ sống của cá sặc rằn ương ở các độ mặn khác nhau được thể hiện ở Hình 2. Hình 2. Tỷ lệ sống của cá sặc rằn giai đoạn từ 20 đến 50 ngày tuổi được ương ở độ mặn khác nhau 86,9c 92,9d 81,1b 74,0a 0 20 40 60 80 100 0‰ 3‰ 6‰ 9‰ (SR,%) (Mật độ)(Độ mặn) Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020 228 Nhiều loài cá nước ngọt có thể sống và phát triển bình thường trong môi trường nước lợ từ 4-5‰ (Lê Văn Cát và ctv., 2006). Từ Hình 2 cho thấy, tỷ lệ sống của cá sặc rằn đạt cao nhất ở 3‰ là 92,9%; ở 0‰ là 86,9%; ở 6‰ là 81,1% và ở 9‰ là 74,0%. Tỷ lệ sống của cá khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) ở tất cả các nghiệm thức. Ở độ mặn 9‰, số lượng cá hao hụt nhiều hơn là do ở độ mặn này thì áp suất thẩm thấu và ion cơ thể cá thấp hơn môi trường nên các ion từ môi trường nước bên ngoài xâm nhập liên tục vào cơ thể làm cho áp suất thẩm thấu và ion bên trong cơ thể cá tăng lên. Để thích nghi và tồn tại được cá phải tốn nhiều năng lượng cho việc điều hòa áp suất thẩm thấu và thải ion ra môi trường ngoài (Nguyễn Phú Hòa, 2014). Thời gian đầu cơ thể cá điều hòa chưa tốt nên chưa thích nghi được nhưng thời gian sau khi thuần độ mặn đến 9‰ khoảng 10 ngày thì cá đã thích nghi và không hao hụt thêm. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu trên cá sặc rằn của Trang Văn Phước (2010), cá được ương ở các độ mặn 0, 5, 7, 9, 11, 13‰ thì tỷ lệ sống của cá sau 4 tuần ương sẽ giảm khi độ mặn tăng. Mặt khác, theo Lê Thị Phương Mai và ctv., (2016) đánh giá ảnh hưởng của độ mặn khác nhau (0, 3, 6, 9, 12 và 15‰) lên tỷ lệ sống của cá cá sặc rằn, kết quả tỷ lệ sống của cá sau 90 ngày thí nghiệm đạt cao nhất là 92,2% ở độ mặn 3‰ trong khi ở độ mặn 12‰ cá chết toàn bộ sau 30 ngày thí nghiệm và ở độ mặn 15‰ cá chết hoàn toàn sau 15 ngày thí nghiệm. Bên cạnh đó, theo Lê Phú Khởi (2010), tỷ lệ sống của cá rô đồng đạt cao nhất là 52,7% ở độ mặn 3‰ và thấp nhất là 2,70% ở độ mặn 15‰. Như vậy nồng độ muối có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu của cá sặc rằn. Khi nồng độ muối trong môi trường sống tăng hay giảm ngoài sự thích ứng thì cá sẽ bị sốc và tăng tỷ lệ chết của cá. 3.2.3. Ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng của cá Tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá sặc rằn khi ương với các độ mặn khác nhau được trình bày ở Bảng 6. Bảng 6. Tăng trưởng khối lượng của cá ở độ mặn khác nhau Độ mặn Wđ (mg) Wc (mg) WG (mg) DWG (mg/ngày) SGR (%/ngày) NT1 (0‰) 92,5±0,11 1.895±6,45b 1.802±6,45b 60,0±0,21b 10,1±0,01b NT2 (3‰) 92,5±0,11 1.980±6.39c 1.887±6.39c 62,9±0,19c 10,2±0,01c NT3 (6‰) 92,5±0,11 1.910±15,9b 1.818±15,9b 60,6±0,51b 10,1±0,02b NT4 (9‰) 92,5±0,11 1.867±18,5a 1.774±18,5a 59,1±0,54a 10,0±0,03a Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa về thống kê (p> 0,05). DWG: Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng; SGR: Tốc độ tăng trưởng tương đối về khối lượng. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020 229 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng hàng ngày của cá dao động từ 59,1- 62,9 mg/ngày (Bảng 6). Tốc độ tăng trưởng đặc biệt về khối lượng cá ở độ mặn 3‰ đạt cao nhất là 10,2 %/ngày và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với cá ở các nghiệm thức còn lại. Điều này được khẳng định sự tăng trưởng nhanh của một số loài cá nước ngọt ở độ mặn dưới hoặc ngang bằng điểm đẳng áp. Theo Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều (2019), độ mặn quyết định tốc độ tăng trưởng khối lượng của cá trê vàng giai đoạn cá bột lên cá hương, cá tăng trưởng nhanh nhất là 16,4 %/ngày ở độ mặn 3‰ và thấp nhất là 16,0 %/ngày ở độ mặn 9‰. Mặt khác, theo Đỗ Thị Thanh Hương và Ngô Tú Trinh (2013), cá lóc tăng trưởng nhanh nhất là 2,73 %/ngày ở độ mặn 3‰ và thấp nhất là 2,28 %/ngày ở độ mặn 12‰. Độ mặn là yếu tố môi trường quan trọng đối với cá do chúng phải duy trì hàm lượng muối hòa tan trong cơ thể ở mức độ ổn định. Thông qua quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu, cá phải tiêu tốn một mức năng lượng nhất định để duy trì trạng thái ổn định đối với môi trường. Mỗi loài cá đều có một độ mặn thích hợp để sống và tăng trưởng. Cá cần phải duy trì nồng độ muối cần có trong cơ thể để đáp ứng các nhu cầu sinh lý của cơ thể. Áp suất thẩm thấu tăng khi cá sống trong môi trường nước có độ mặn tăng. Các muối trong môi trường nước làm thay đổi bản chất hóa học tự nhiên của nước, đồng thời thay đổi áp suất thẩm thấu lên cá và cá phải liên tục thay đổi các hoạt động sinh lý để duy trì thành phần hóa học của cơ thể để chống lại sự thay đổi của áp suất thẩm thấu. Tóm lại, qua kết quả về sự tăng trưởng khối lượng của cá sặc rằn cho thấy ở nghiệm thức có độ mặn thấp (3‰) thì cá tăng trưởng nhanh hơn cá được ương ở 0,6 và 9‰ (Bảng 6). Khi độ mặn trong môi trường sống tăng thì cá sặc rằn phải mất nhiều năng lượng để điều hòa áp suất thẩm thấu và ion cơ thể bằng cách giữ lại nước và thải ion ra khỏi cơ thể qua mang theo cơ chế giảm ái lực. 3.2.4. Ảnh hưởng của độ mặn lên phân hóa sinh trưởng của cá Tỷ lệ phân hóa sinh trưởng khối lượng của cá sặc rằn khi ương với độ mặn khác nhau được thể hiện ở Bảng 7. Bảng 7. Phân hóa sinh trưởng của cá ương ở độ mặn khác nhau Nghiệm thức độ mặn Tỷ lệ (%) theo nhóm khối lượng của cá < 1.800 mg 1.800-2.000 mg > 2.000 mg NT1 (0‰) 12,0b 71,3d 16,7a NT2 (3‰) 0,00a 60,7c 39,3d NT3 (6‰) 19,3c 55,3b 25,4c NT4 (9‰) 29,3d 52,0a 18,7b Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020 229 Từ số liệu được ghi nhận ở Bảng 7, độ mặn của môi trường sống có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá. Khối lượng của cá trong các nghiệm thức được phân loại thành 3 nhóm: nhóm cá nhỏ có khối lượng dưới 1.800 mg; nhóm cá trung bình có khối lượng từ 1.800 mg đến 2.000 mg và nhóm có lớn khối lượng trên 2.000 mg. Kết thúc thí nghiệm, ở các độ mặn 0, 6 và 9‰ đều có sự xuất hiện của 3 nhóm cá nhỏ, trung bình và lớn. Xét nhóm cá nhỏ có khối lượng dưới 1.800 mg, ở độ mặn 9‰ xuất hiện với tỷ lệ cao nhất là 29,3% và tỷ lệ này giảm còn 19,3% ở 6‰; 12,0% ở 0‰ và không có sự xuất hiện cá thể nào dưới 1.800 mg ở độ mặn 3‰ (Bảng 7). Mặt khác, xét nhóm cá có khối lượng lớn trên 2.000 mg, ở độ mặn 3‰ chiếm tỷ lệ cao nhất là 39,3%. Điều này khẳng định ở độ mặn phù hợp (3‰) cá phát triển nhanh hơn và sự phân hóa khối lượng cũng ít hơn so với cá ở ba nghiệm thức còn lại. Khối lượng trung bình và hệ số biến động (CV) của sặc rằn ương ở các độ mặn khác nhau được ghi nhận ở Bảng 8. Bảng 8. Khối lượng trung bình và hệ số biến động (CV) của cá Độ mặn Khối lượng trung bình (mg) Hệ số biến động (CV) NT1 (0‰) 1.895±6,45 b 0,0034 NT2 (3‰) 1.980±6.39 c 0,0032 NT3 (6‰) 1.910±15,9 b 0,0083 NT4 (9‰) 1.867±18,5 a 0,0099 CV: Hệ số biến động (tỷ lệ giữa độ lệch và trung bình khối lượng của cá-Wc) Kết thúc thí nghiệm, khối lượng của cá sặc rằn dao động trong khoảng 1.867- 1.980 mg/con và có sự khác biệt thống kê (p<0,05) giữa các nghiệm thức (Bảng 8). Cá đạt khối lượng lớn nhất là 1.980 mg/con ở 3‰ và nhỏ nhất là 1.867 mg/con ở 9‰. Ngược lại, hệ số biến động (CV) nhỏ nhất là 0,0032 ở độ mặn 3‰ và lớn nhất là 0,0099 ở độ mặn 9‰. Kết quả này khẳng định cá sặc rằn tăng trưởng đều hơn khi ương ở môi trường có độ mặn phù hợp (0-3‰). 4. KẾT LUẬN Cá sặc rằn cỡ 92,5 mg/con phát triển tốt ở mật độ 3 con/L với tỷ lệ sống cao nhất là 86,9% và tốc độ tăng trưởng khối lượng nhanh nhất là 60,1 mg/ngày. Cá sặc rằn cỡ 92,5 mg/con sống được trong nước ngọt và nước lợ, cá có khả năng sống tốt ở độ mặn 3-9‰. Tuy nhiên, ở độ mặn 3‰, tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá đạt giá trị cao nhất lần lượt là 92,9% và 62,9 mg/ngày. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020 231 Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, hướng nghiên cứu tiếp theo là cần thử nghiệm ương cá sặc rằn với quy mô lớn hơn để đánh giá hiệu quả kinh tế của mô hình sản xuất giống và khả năng áp dụng vào thực tiễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Nhựt Long, Nguyễn Anh Tuấn và Lam Mỹ Lan, 2014. Giáo trình kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. 2. Đỗ Thị Thanh Hương và Ngô Tú Trinh, 2013. Ảnh hưởng của độ mặn lên điều hòa áp suất thẩm thấu và tăng trưởng của cá lóc (Channa striata). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Trang 247-254. 3. El-Sayed, A. F. M., 2002. Effects of stocking density and feeding levels on growth and feed efficiency of Nile tilapia (Oreochromis niloticus) fry. Aquaculture Research, Volume 33, Issue 8. Page 621-626. 4. Lê Phú Khởi, 2010. Ảnh hưởng của độ mặn, pH đến sự phát triển phôi và cá bột rô đồng (Anabas testudineus). Luận văn tốt nghiệp cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản-Trường Đại học Cần Thơ. 5. Lê Quốc Việt, Trần Ngọc Hải và Nguyễn Anh Tuấn, 2010. Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá đối (Liza subviridis) ương trong giai. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Trang 205-212. 6. Lê Thị Phương Mai, Võ Nam Sơn, Đỗ Thị Thanh Hương, Dương Văn Ni và Trần Ngọc Hải, 2016. Đánh giá ảnh hưởng của độ mặn lên cá sặc rằn (Trichogaster pectogalis) và khả năng nuôi cá ở tỉnh Hậu Giang trong điều kiện xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Trang 133-142. 7. Lê Văn Cát, Đỗ Thị Hồng Nhung và Ngô Ngọc Cát, 2006. Nước nuôi thủy sản-chất lượng và giải pháp cải thiện chất lượng. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật Hà Nội. 8. Nguyễn Phú Hòa, 2014. Chất lượng môi trường nước trong nuôi trồng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 9. Nguyễn Quang Đạt, Trần Đình Luân, Trần Anh Tuấn và Trương Tiến Hải, 2011. Ảnh hưởng của mật độ đến tang trưởng và tỷ lệ sống của cá chạch sông (Mastacembelus armatus) giai đoạn ương từ hương lên giống. Tạp chí Khoa học và Phát triển. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Tập 9. Trang 948- 953. 10. Nguyễn Văn Kiểm và Phạm Minh Thành, 2013. Kỹ thuật sản xuất giống cá nước ngọt. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. 11. Refstie, T and Kittelsen, A., 1976. Effects of density on growth and survival of artificial Atlantic salmon. Aquaculture, Amsterdam, Volume 8. Page. 319-326. 12. Sampaio, L.A., Ferreira. A.H and Tesser. M.B, 2001. Effects of stocking density on laboratory rearing of mullet fingerlings (Mugil platanus Gunther, 1980). Acta Scientiarum. Maringa, Volume 23. Page 471-475. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020 232 13. Tiêu Minh Luân, 2010. Ảnh hưởng của thức ăn và mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus, Bleeker) giai đoạn giống. Luận văn tốt nghiệp cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ. 14. Tiêu Quốc Sang, Dương Nhựt Long và Lam Mỹ Lan, 2013. Ảnh hưởng của mật độ ương lên tăng trưởng và tỷ lệ sống và hiệu quả tài chính của mô hình ương nuôi cá lóc (Channa striata) thương phẩm trong bể lót bạt. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Trang 223-230. 15. Trang Văn Phước, 2010. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn khác nhau tới sự sinh trưởng và điều hòa áp suất thẩm thấu cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis Regan, 1910). Luận văn tốt nghiệp cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản-Trường Đại học Cần Thơ. 16. Trang Văn Phước, Trương Minh Chuẩn và Trần Thị Thu Thủy, 2012. Ảnh hưởng của mật độ ương lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis) ương trong giai từ cá hương lên cá giống tại Kiên Giang. Trang 228-235. 17. Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2019. Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá trê vàng (Clarias macrocephalus) giai đoạn 7 đến 37 ngày tuổi. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế. Trường Đại học Tây Đô. Trang 237-249. 18. Trzebiatowski, R., 1981. Effects of stocking density on growth and survival of rainbow trout (Salmo gairdneri). Aquaculture, Amsterdam, Volume 22. Page 289-295. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020 233 EFFECT OF DENSITIES AND SALINITIES ON SURVIVAL RATE AND GROWTH OF SNAKESKIN GOURAMI FISH (Trichogaster pectoralis) FINGERLINGS IN 20 TO 50 DAY-OLD STAGE Tran Ngoc Tuyen1 and Nguyen Van Trieu2 1Faculty of Applied Biology, Tay Do University 2Faculty of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University (Email: tntuyen@tdu.edu.vn) ABSTRACT This study aimed to evaluate the effects of different stocking densities and salinities on growth and survival rate of snakeskin gourami fish (Trichogaster pectoralis) to provide basic information for farming process and contribute to the adaptation of freshwater fishery on salinity intrusion in the Mekong Delta. Two experiments were set up (1) effect of stocking densities on survival rate and growth of snakeskin gourami fish and (2) effect of salinities on survival and growth of this species. In the first experiment, fish (92,5 mg) were stocked at 3 density treatments including 3 fish/L (T1), 6 fish/L (T2) and 9 fish/L (T3) and each treatment was repeated three times. Fish was nursed in composite tank system (35L). After 30 days, the results showed that survival rate of fish fluctuated from 74,9 to 86,9% which are significantly different (p< 0.05) among treatments, survival of fish was highest (86,9%) with 3 fish/L. Daily weigth growth of fish was highest (60,1 mg/day) in the treatment 3 fish/L, significantly different from the other treatments. In the second experiment, fish (92,5 mg) were stocked 3 fish/L with 4 salinity levels of 0‰ (T1); 3‰ (T2); 6‰ (T3) and 9‰ (T4) with three replications. The results showed that survival rate of fish was highest (92,9%) at in level of 3‰. Daily weigth growth of fish was highest (62,9 mg/day) was recorded similarly at the salinity of 3‰, and significantly different from the other salinity levels. Keysword: Snakeskin gourami, salinity, stocking density, growth, survival rate
File đính kèm:
- anh_huong_cua_mat_do_va_do_man_len_ty_le_song_va_tang_truong.pdf