Ảnh hưởng của độ mặn đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và hệ số chuyển hóa thức ăn của cá bống bớp (Bostrychus sinensis) giai đoạn giống
Tóm tắt: Đối tượng của nghiên cứu này là con giống từ 1 đến 3 tháng tuổi. Thí nghiệm được tiến hành với
4 độ mặn khác nhau gồm 5, 10, 15 và 20‰, được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn, mỗi nghiệm thức
lặp lại 3 lần. Cá thí nghiệm được cho ăn cá nục gai xay nhuyễn, cho cá ăn 2 lần/ngày với lượng cho ăn bằng
5% khối lượng thân. Độ mặn khác nhau có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng và hệ số chuyển hóa thức ăn
của cá (p < 0,05),="" nhưng="" không="" ảnh="" hưởng="" đến="" tỷ="" lệ="" sống="" của="" cá="" (p=""> 0,05) sau 50 ngày thí nghiệm. Tốc độ
sinh trưởng và hệ số chuyển hóa thức ăn của cá tốt nhất khi ương trong môi trường có độ mặn 15‰, có sự
khác biệt so với nghiệm thức 5‰ hoặc 20‰ nhưng không khác biệt giữa độ mặn 5, 10 và 20‰ và giữa độ
mặn 10‰ và 15‰. Kết quả của thí nghiệm cho thấy có thể tiến hành ương cá bống bớp giai đoạn giống từ
1 đến 3 tháng tuổi ở độ mặn từ 10‰ đến 20‰ để đạt hiệu quả tốt nhất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của độ mặn đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và hệ số chuyển hóa thức ăn của cá bống bớp (Bostrychus sinensis) giai đoạn giống
dưỡng này là tương đối cao, nhưng vẫn được kiểm soát trong ngưỡng thích hợp cho cá do hàng ngày được siphon và bù vào một phần nước mới. 3.2 Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng của cá Bảng 3. Biến động của các yếu tố môi trường trong quá trình thí nghiệm Nghiệm thức 5 ‰ 𝑚𝑖𝑛 − 𝑚𝑎𝑥 𝑇𝐵 ± 𝑆𝐷 10 ‰ 𝑚𝑖𝑛 − 𝑚𝑎𝑥 𝑇𝐵 ± 𝑆𝐷 15 ‰ 𝑚𝑖𝑛 − 𝑚𝑎𝑥 𝑇𝐵 ± 𝑆𝐷 20 ‰ 𝑚𝑖𝑛 − 𝑚𝑎𝑥 𝑇𝐵 ± 𝑆𝐷 Nhiệt độ (°C) 27,1 − 31,2 28,63 ±1,44𝑎 27,4 − 31,1 28,42 ±1,28𝑎 27,2 − 31,0 28,58 ±1,15𝑎 27,5 − 31,5 28,67 ± 1,27𝑎 pH 7,9 − 8,3 8,03 ± 0,37𝑎 7,8 − 8,4 8,18 ± 0,28𝑎 7,9 − 8,5 8,14 ± 0,39𝑎 8,1 − 8,5 8,25 ± 0,34𝑎 DO (mg/L) 5,8 − 7,6 6,43 ± 0,45𝑎 5,6 − 7,3 6,23 ± 0,31𝑎 5,5 − 7,2 5,95 ± 0,48𝑎 6,0 − 7,5 6,39 ±0,52𝑎 PO4-P (mg/L) 0,24 ± 0,08a 0,26 ± 0,09a 0,27 ± 0,07a 0,29 ± 0,10a TP (mg/L) 0,26 ± 0,08a 0,29 ± 0,09a 0,30 ± 0,09a 0,32 ± 0,10a NO3–N (mg/L) 1,80 ± 0,86a 2,01 ± 0,64a 2,18 ± 0,63a 2,32 ± 0,67a NH4–N (mg/L) 0,27 ± 0,23a 0,34 ± 0,32a 0,33 ± 0,32a 0,35 ± 0,35a TN (mg/L) 2,00 ± 0,49a 2,12 ± 0,50a 2,16 ± 0,50a 2,30 ± 0,42a TOC (mg/L) 2,50 ± 0,87a 2,55 ± 0,88a 2,72 ± 0,85a 2,93 ± 0,99a Ghi chú: TB: trung bình; SD: độ lệch chuẩn; Ký tự a trên cùng hàng thì sai khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Jos.hueuni.edu.vn Tập 129, Số 3B, 2020 37 Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng của cá bống bớp giai đoạn giống được trình bày ở Bảng 4 và Hình 4, 5. Bảng 4. Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng của cá Độ mặn (‰) Khối lượng ban đầu (g) Khối lượng cuối (g) Chiều dài ban đầu (cm) Chiều dài cuối (cm) 5 0,085 ± 0,025a 0,375 ± 0,032b 1,052 ± 0,083a 3,276 ± 0,106b 10 0,084 ± 0,028a 0,392 ± 0,026ab 1,068 ± 0,053a 3,448 ± 0,080a 15 0,088 ± 0,022a 0,412 ± 0,036a 1,066 ± 0,072a 3,533 ± 0,100a 20 0,087 ± 0,023a 0,357 ± 0,029b 1,095 ± 0,066a 3,315 ± 0,076b Ghi chú: Các ký tự a, b khác nhau trên cùng cột thì sai khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Hình 4. Tăng trưởng khối lượng và chiều dài của cá theo thời gian. Hình 5. Sinh trưởng của cá qua các đợt kiểm tra: (a) 10 ngày; (b) 20 ngày; (c) 30 ngày; (d) 40 ngày và (d) 50 ngày. 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0 10 20 30 40 50 K h ố i lư ợ n g ( g ) Thời gian (ngày) 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 0 10 20 30 40 50 C h iè u d ài ( cm ) Thời gian (ngày) 5ppt 10ppt 15ppt 20ppt Nguyễn Văn Huy và CS. Tập 129, Số 3B, 2020 38 Kết quả thí nghiệm cho thấy, cá giống từ 1 đến 3 tháng tuổi có thể thích ứng và sinh trưởng ở các độ mặn khác nhau. Mặc dù vậy, độ mặn khác nhau có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá thí nghiệm. Khối lượng của cá khi kết thúc thí nghiệm có sự sai khác có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức khác nhau (p < 0,05). Tương tự, chiều dài của cá cũng có sự khác nhau khi nuôi ở các độ mặn khác nhau. Ở độ mặn 10 và 15‰, cá đạt khối lượng và chiều dài lớn nhất và có sự sai khác có ý nghĩa thống kê với nghiệm thức 5 và 20‰. Không thấy có sự sai khác về chiều dài của cá giữa nghiệm thức 5 và 20‰; giữa 10 và 15‰ (p > 0,05). Tốc độ tăng trưởng của cá cũng bị ảnh hưởng bởi độ mặn của nước. Có sự sai khác có ý nghĩa thống kê về tốc độ tăng trưởng chiều dài, khối lượng của cá ở các độ mặn khác nhau (p < 0,05). Ở độ mặn 15‰, tốc độ tăng trưởng chiều dài và khối lượng của cá (%/ngày) cao hơn so với độ mặn 5 hoặc 20‰, nhưng không thấy sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng của cá ở độ mặn 5, 10 và 20‰ (p > 0,05). Nhiều tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn đến tốc độ sinh trưởng của cá và công bố rằng nhiều loài cá biển có khả năng sinh trưởng nhanh hơn ở độ mặn thấp hơn là độ mặn cao. Cá sống ở các độ mặn khác nhau là nhờ vào quá trình điều hoà áp suất thẩm thấu của chúng để duy trì một nồng độ muối nhất định bên trong cơ thể thích hợp so với môi trường bên ngoài nơi cá sinh sống. Hơn nữa, cá bống bớp là một loài cá rộng muối, thỉnh thoảng có thể tìm thấy ở nước ngọt và nước mặn [8, 14] nên chúng có khả năng thích ứng tốt trong điều kiện thay đổi độ mặn của môi trường ngoài. Theo Nguyễn Văn Kiểm và Trang Văn Phước [13] thì khi nhiệt độ và pH nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng của cá thì chỉ có độ mặn là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá. Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra cá bống bớp trưởng thành có thể chịu đựng một sự tăng độ mặn từ 5 đến 30‰. Ở độ mặn 5 ‰ thì cá sẽ điều hoà tăng áp suất thấp thẩu và điều hoà giảm áp suất thẩm thấu khi ở trong nước biển [15]. Tương tự, Zhang và Huang [22] cũng đã chỉ ra rằng, cá bống bớp giai đoạn giống có khả chịu đựng sự thay đổi độ mặn rất lớn từ 5 đến 35‰, nhưng chúng không thể sống sót trong môi trường nước ngọt; tốc độ tăng trưởng cao nhất quan sát được ở độ mặn 5‰ và 15‰; đồng thời ở độ mặn 15 ‰ cho hiệu quả chuyển hoá thức ăn tốt nhất, nhưng khác với công bố của Đỗ Mạnh Dũng và Ngô Anh Tuấn [1] khi cho rằng ương cá bống bớp giống (sau 3 tháng tuổi) đạt kết quả tốt nhất ở độ mặn Bảng 5. Ảnh hưởng của độ mặn đến tốc độ tăng trưởng của cá Độ mặn (‰) SGR-W (%/ngày) SGR-L (%/ngày) 5 1,24 ± 0,05b 0,95 ± 0,03b 10 1,31 ± 0,02ab 1,02 ± 0,03ab 15 1,33 ± 0,01a 1,04 ± 0,04a 20 1,21 ± 0,05b 0,96 ± 0,03b Ghi chú: Các ký tự a, b khác nhau trên cùng cột thì sai khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Jos.hueuni.edu.vn Tập 129, Số 3B, 2020 39 7‰. Kết quả khác nhau có lẽ do kích cỡ giống cá thí nghiệm khác nhau. Người ta khuyến cáo rằng nên nuôi cá ở độ mặn gần với điểm đẳng trương của cá để tiết kiệm năng lượng mất đi cho quá trình điều hoà áp suất thẩm thấu, bởi vì độ mặn thay đổi sẽ làm cho quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu tăng bên trong của cá nên chúng phải mất đi năng lượng cho hoạt động can bằng ion trong cơ thể [6]. Cá bống bớp là loài rộng muối, chủ yếu phân bố ở môi trường nước lợ, vì vậy độ mặn 15 ‰ là tối ưu đối với cá giống giai đoạn nhỏ. 3.3 Ảnh hưởng của độ mặn đến tỷ lệ sống và hệ số chuyển hóa thức ăn của cá Kết quả của thí nghiệm về tỷ lệ sống của cá ở các độ mặn khác nhau được trình bày ở Bảng 6. Có thể khẳng định rằng, cá bống bớp là loài có khả năng thích ứng tốt với sự thay đổi của độ mặn khác nhau. Tỷ lệ sống của cá thay đổi từ 73% đến 78% sau 50 ngày thí nghiệm. Tuy nhiên, không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sống của cá ở các độ mặn khác nhau (p > 0,05). Về hệ số chuyển hóa thức ăn của cá ương ở các độ mặn khác nhau thì có sự khác nhau (p < 0,05). Tương tự với kết quả về tốc độ tăng trưởng của cá, ở độ mặn 15‰ hệ số FCR của cá thấp nhất, có sự sai khác có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức độ mặn 5‰ hoặc 20‰, nhưng không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hệ số FCR của cá giữa các nghiệm thức còn lại (p > 0,05). Hệ số chuyển hóa thức ăn của cá bống bớp trong nghiên cứu này tương đồng với một số nghiên cứu trước đây trên các đối tượng khác nhau. Shapawi và Mustafa [18] khi so sánh FCR của cá mú khi cho ăn thức ăn viên (tự chế biến) so với thức ăn cá tạp tươi cho thấy, thức ăn viên (FCR = 1,3÷2,4) có FCR nhỏ hơn rất nhiều so với thức ăn tươi (FCR = 5) và điều này được giải thích là do sự mất mát khi cá ăn phải chia tách ra từng miếng nhỏ. Điều này cũng được Sim và Rimmer [19] ước tính mất mát khi cho ăn thức ăn tươi sống là 30–50% khi nuôi trong ao. Trong nghiên cứu này, mặc dù thức ăn cá tạp được xay nhuyễn nhưng lại có hệ số thức ăn thấp là do ương trong bể có thể tích nhỏ, dễ kiểm soát trong quá trình cho cá ăn nên lượng thức ăn mất mát là rất thấp. 4 Kết luận và kiến nghị Bảng 6. Ảnh hưởng của độ mặn đến tỷ lệ sống, hệ số chuyển hóa thức ăn của cá Độ mặn (‰) Tỷ lệ sống (%) FCR 5 72,87 ± 5,81a 2,76 ± 0,13b 10 77,50 ± 2,85a 2,62 ± 0,10ab 15 78,17 ± 5,54a 2,30 ± 0,18a 20 74,87 ± 6,84a 2,74 ± 0,09b Ghi chú: Các ký tự a, b khác nhau trên cùng cột thì sai khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Nguyễn Văn Huy và CS. Tập 129, Số 3B, 2020 40 4.1 Kết luận Độ mặn có ảnh hưởng đến sinh trưởng, hệ số chuyển hóa thức ăn đối với cá bống bớp ở giai đoạn giống từ 1 đến 3 tháng tuổi. Ương cá ở độ mặn 15‰ cho kết quả sinh trưởng và hệ số chuyển hóa thức ăn tốt hơn khi ương ở độ mặn 5 hoặc 20‰, nhưng không thấy có sự khác biệt về các chỉ số này ở cá khi ương ở độ mặn 10 và 15‰. Cá bống bớp giai đoạn giống có khả năng thích ứng tốt khi ương ở các độ mặn khác nhau. Vì vậy, tỷ lệ sống của cá khi ương ở các độ mặn khác từ 5 đến 20‰, không thấy có sự khác biệt về tỷ lệ sống. 4.2 Đề nghị Cần nghiên cứu sâu hơn nữa về ảnh hưởng của độ mặn đến quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu của cá. Có các nghiên cứu thử nghiệm về ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá ở giai đoạn giống để bổ sung hoàn thiện quy trình sản xuất giống loài cá này. Thông tin tài trợ Nghiên cứu này được tài trợ bởi ngân sách phân bổ cho nghiên cứu khoa học của Đại Học Huế năm 2018–2019, mã số: DHH2018-02-104 Tài liệu tham khảo 1. Đỗ Mạnh Dũng and Ngô Anh Tuấn (2013), Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn, thức ăn và mật độ ương đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá bống bớp (Bostrichthys sinensis, Lacepède, 1801) giai đoạn con giống, Tạp chí khoa học Công nghệ Thuỷ Sản, 2, 101–106. 2. Đỗ Thị Thanh Thủy and Nguyễn Anh Tuấn (2017), Nghiên cứu ứng dụng hỗn hợp Alcalase và Flavourzyme để thủy phân cá nục gai (Decapterus russelli) thu hồi dịch đạm thủy phân, Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, 3, 73–79. 3. Hong W. and Zhang Q. (2003), Review of captive bred species and fry production of marine fish in China, Aquaculture, 227, 305–318. 4. Huang Z. (2001), Marine species and their distribution in China’s seas, Comp Biochem Physiol, 38B, 537–541 5. Hwang, H. C., I. Y. Chen and P. C. Yueh (1998), The freshwater Fishes of China in colored illustrations, Shanghai. 6. Imsland, A., S. Gunnarsson, A. Foss and S. Stefansson (2003), Gill Na+, K+-ATPase activity, plasma chloride and osmolality in juvenile turbot (Scophthalmus maximus) reared at different temperatures and salinities, Aquaculture, 218, 671–683. Jos.hueuni.edu.vn Tập 129, Số 3B, 2020 41 7. Ip, Y., S. Chew, I. Leong, J. Y., R. Wu and C. Lim (2001), The sleeper Bostrichyths sinensis (Teleost) stores glutamine and reduces ammonia production during aerial exposure., J. of Comp. Physiol. B, 171, 357–367. 8. Kottelat M., Whitten AJ., Kartikasari SN. and W. S. (1993), Freshwater Fishes of Western Indonesia and Sulawesi, Periplus Editions, Hong Kong. 9. Kuo SR. and Shao KT. (1999), Species composition of fish in the coastal zones of the Tsengwen estuary, with descriptions of five new records from Taiwan, Zool Stud., 38, 391– 404. 10. Lugert, V., G. Thaller, J. Tetens, C. Schulz and J. Krieter (2014), A review on fish growth calculation: Multiple functions in fish production and their specific application, Reviews in Aquaculture, 6. 11. Ni IH. and Kwok KY (1999), Marine Wsh fauna in Hong Kong waters, Zool. Stud., 38, 130–152. 12. Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Tử Minh and N.K.H. Sơn (2019), Nuôi vỗ thành thục và ảnh hưởng của liều lượng hormone hCG khác nhau lên sinh sản cá bống bớp (Bostrichthys sinensis Lacepède, 1801), Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 128(3A), 15–25. 13. Nguyễn Văn Kiểm and Trang Văn Phước (2011), Ảnh hưởng của độ mặn đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và biến đổi áp suất thẩm thấu của cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis), Tạp chí khoa học, Trường Đại Học Cần Thơ, 19b, 219–224. 14. Peh, W.Y.X., S.F. Chew, J. Wilson and Y.K. Ip (2009), Branchial and intestinal osmoregulatory acclimation in the four-eyed sleeper, Bostrychus sinensis (LacepSde), exposed to seawater, Marine Biology, 156, 1751–1764. 15. Peterson, M., B. Comyns, C. Rakocinski and G. Fulling (1999), Does salinity affect somatic growth in early juvenile Atlantic croaker, Micropogonias undulatus (L.), Journal of Experimental Marine Biology and Ecology, 238, 199–207. 16. Sarkar, R., S. Khan, M.M. Haque and M. Haq (2006), Evaluation of growth and water quality in pangasiid catfish (Pangasius hypophthalmus) monoculture and polyculture with silver carp (Hypophthalmichthys molitrix), Journal of the Bangladesh Agricultural University, 4, 339–346. 17. Semra, K. (2013),The effects of salinity on growth of goldfish, Carassius auratus and crucian carp, Carassius carassius, African Journal of Biotechnology, 12(16), 2082–2087 18. Shapawi, R., S. Mustafa and W.K. Ng (2011), A Comparison of the Growth Performance and Body Composition of the Humpback Grouper, Cromileptes altivelis Fed on Farm-made Feeds, Commercial Feeds or Trash Fish, Journal of Fisheries and Aquatic Science, 6, 523–534. Nguyễn Văn Huy và CS. Tập 129, Số 3B, 2020 42 19. Sim, S.-Y., M. Rimmer, K. Williams, J. Toledo, K. Sugama, I. Rumengan and M. Phillips (2005), A Practical Guide to Feeds and Feed Management for Culture Groupers, NACA, Bangkok, Thailand, 18 pp. 20. Taylor, J. F., H. Migaud, M. J. R. Porter and N. R. Bromage (2005), Photoperiod influences growth rate and plasma insulin-like growth factor-I levels in juvenile rainbow trout, Oncorhynchus mykiss, General and Comparative Endocrinology, 142(1), 169–185. 21. Trần Văn Đan và Từ Minh Hà (1998), Kêt́ quả bước đầu tìm hiểu khả năng sử dụng thức ăn tổng hợp của cá bống bớp (Bostrichthys sinensis Lacepede, 1801), Tuyển tập báo cáo khoa học tại Hội thảo khoa học toàn quốc về Nuôi trồng thủy sản, 260–262. 22. Zhang, Y. T., S. Huang, H. T. Qiu, Z. Li, Y. Mao, W. S. Hong and S. X. Chen (2017), Optimal salinity for rearing Chinese black sleeper ( Bostrychus sinensis ) fry, Aquaculture, 476, 37–43. EFFECTS OF SALINITY ON GROWTH PERFORMANCE, SURVIVAL RATE, AND FEED CONVERSION RATIO OF BOSTRYCHUS SINENSIS FINGERLINGS Nguyen Van Huy1*, Huynh Tan Xinh1, Morihiro Maeda2 1 University of Agriculture and Forestry, Hue University, 102 Phung Hung St., Hue, Vietnam 2 Graduate School of Environmental and Life Science, Okayama University, Japan Abstract: The subject of this study is the fingerlings of Bostrychus sinensis, aged 1–3 months. The experiment was conducted in three replicates with four treatments (5, 10, 15, and 20‰) by using the completely randomized design method. The treated fish was fed by trash fish at a 5%-bodyweight amount, twice a day. The salinity affects the growth performance and feed conversion ratio of fish (p < 0.05) but not the survival ratio after 50 days of treatment. The growth performance and feed conversion ratio are the highest with 15‰ salinity, different from those in the 5 and 20‰ treatment. They are not significantly different between treatments 5, 10, and 20‰, and between 10 and 15‰. The results suggest that the fingerlings could be reared at the salinity from 10 to 15‰ to get the best outcomes. Keywords: Bostrychus sinensis, salinity, growth, survival rate, feed conversion ratio
File đính kèm:
- anh_huong_cua_do_man_den_toc_do_sinh_truong_ty_le_song_va_he.pdf