Xác định tính kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn Streptococcus spp. gây bệnh trên cá rô phi và cá rô đầu vuông nuôi tại một số tỉnh phía Bắc
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu này, các chủng vi khuẩn Streptococcus spp. phân lập được từ cá rô phi và cá rô
đầu vuông bị bệnh thu tại tỉnh Phú Thọ và Hải Dương đã được lựa chọn để xác định tính kháng thuốc
kháng sinh đối với 12 loại kháng sinh bằng phương pháp kháng sinh đồ khuếch tán trên đĩa thạch. Kết
quả kháng sinh đồ cho thấy Streptococcus spp. có tính mẫn cảm cao đối với tetracycline, doxycycline
(nhóm tetracyclin), florphenicol (nhóm phenicol), erythromycin và rifampicin (nhóm macrolide),
vancomycin (nhóm đa peptid); nhưng có tính kháng đối với ampicillin và oxacillin (nhóm ß-lactam),
trimethoprim/sulfameyhoxazole (nhóm sulfamid/trimethoprim) và kháng hoàn toàn với streptomycin,
neomycin (nhóm aminoglycoside) và novobiocin (nhóm đa peptid). Hiện tượng kháng đa kháng sinh
cũng đã được ghi nhận ở các chủng Streptococcus spp., trong đó đa kháng với ít nhất 2 loại kháng sinh
và nhiều nhất với 6 loại kháng sinh. Kết quả nghiên cứu này đã cung cấp cơ sở dữ liệu về hiện tượng
kháng kháng sinh ở vi khuẩn gây bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xác định tính kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn Streptococcus spp. gây bệnh trên cá rô phi và cá rô đầu vuông nuôi tại một số tỉnh phía Bắc
n gram (-). Hình 1. Sự kháng thuốc của các chủng Streptococcus spp. đối với kháng sinh nhóm ß-lactam và aminoglycoside Kết quả nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra hiện tượng kháng kháng sinh ampicillin của các vi khuẩn Vibrio harveyi và V. carchariae gây bệnh phát sáng trên hậu ấu trùng tôm sú ở Việt Nam (Đặng Thị Hoàng Oanh và cs, 2006) và của các chủng Streptococcus spp. gây bệnh trên cá rô phi vằn ở Ai Cập (Osman et al., 2017). Kết quả thử kháng sinh đồ của các chủng Streptococcus spp. đối với kháng sinh thuộc nhóm tetracycline, nhóm phenicol và nhóm sulfamid/trimethoprim (hình 2) cho thấy tất cả các chủng vi khuẩn thử nghiệm đều có tính nhạy cao với kháng sinh tetracycline và doxycycline thuộc nhóm tetracycline (hình 2C) và kháng sinh florphenicol thuộc nhóm phenicol (hình 2D-1). Hay nói cách khác, kháng sinh thuộc 2 nhóm này có tính nhạy cao đối với các chủng vi khuẩn Streptococcus spp. thử nghiệm. Nhóm tetracycline và nhóm phenicol bao gồm những 30 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 2 - 2019 kháng sinh có hoạt phổ rộng, tác dụng mạnh với vi khuẩn gram (+), gram (-) và thậm chí với cả vi khuẩn nội bào như Rickettsia, Chlamydia (Prescott et al., 2000). Kết quả kháng sinh đồ này của chúng tôi có chút khác biệt với kết quả nghiên cứu của Osman et al. (2017) chỉ ra rằng hiện tượng kháng tetracycline đã ghi nhận ở một số chủng Streptococcus spp. phân lập từ cá rô phi bệnh ở Ai Cập. Sự khác biệt này hoàn toàn có thể giải thích được vì tính kháng thuốc kháng sinh của các chủng vi khuẩn phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng rộng rãi và phổ biến của loại kháng sinh đó. Thực tế, tetracycline, doxycycline và florphenicol được đánh giá là có tính nhạy cao đối với Streptococcus spp. trong nghiên cứu này (hình 2C, 2D-1), song florphenicol đã được ghi nhận có kháng đối với vi khuẩn Aeromonas hydrophila (Phạm Thanh Hương và cs, 2011), doxycycline kháng với vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh AHPND trên tôm nuôi nước lợ (Trương Thị Mỹ Hạnh và cs, 2016) và florphenicol, tetracycline kháng cao đối với vi khuẩn A. schubertii gây bệnh đốm trắng nội tạng trên cá lóc (Đoàn Thị Minh Châu và cs, 2018). Kết quả nghiên cứu này cảnh báo nên thận trọng trong việc sử dụng kháng sinh nói chung, đặc biệt với kháng sinh thế hệ mới, rằng nếu chúng được sử dụng rộng rãi và phổ biến thì sẽ gia tăng tính kháng thuốc. Hình 2. Sự kháng thuốc của các chủng Streptococcus spp. đối với kháng sinh nhóm tetracycline, phenicol và nhóm sulfamid/trimethoprim Kết quả thử kháng sinh đồ đối với kháng sinh trimethoprim/sulfamethoxazole (SXT) nhóm sulfamid/trimethoprim cho thấy 66,7% (4/6) chủng Streptococcus spp. thử nghiệm kháng lại hoàn toàn với kháng sinh này (hình 2D-2). SXT là kháng sinh phổ rộng có tác dụng ức chế sự tổng hợp acid folic của vi khuẩn (Prescott et al., 2000) và chúng từ lâu được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh động vật ở Việt Nam cũng như trên thế giới (Dung et al., 2008) nên xuất hiện chủng vi khuẩn gây bệnh trong NTTS kháng với SXT là hoàn toàn có thể xảy ra. Thực tế hiện tượng kháng SXT cũng đã được báo cáo đối với vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh phát sáng trên tôm (Đặng Thị Hoàng Oanh và cs, 2006), vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh gan thận mủ trên cá tra (Từ Thanh Dung và cs, 2010) và vi khuẩn Aeromonas spp. gây bệnh đốm trắng nội tạng trên cá lóc (Đoàn Thị Minh Châu và cs, 2018). 31 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 2 - 2019 Kết quả thử kháng sinh đồ của các chủng Streptococcus spp. đối với kháng sinh thuộc nhóm macrolide và nhóm đa peptid (hình 3) cho thấy các chủng vi khuẩn thử nghiệm đều có tính nhạy trung bình hoặc nhạy cao đối với kháng sinh erythromycin và rifampicin - nhóm macrolide (hình 3E) và kháng sinh vancomycin - nhóm đa peptid (hình 3F). Tuy nhiên, 83,3% (5/6) chủng thử nghiệm có hiện tượng kháng với novobiocin thuộc nhóm kháng sinh đa peptid (hình 3F2). Hình 3. Sự kháng thuốc của các chủng Streptococcus spp. đối với kháng sinh nhóm macrolide và nhóm đa peptid Kết quả nghiên cứu này cũng có chút khác biệt khi so sánh với kết quả nghiên cứu của Osman et al. (2017) đã chỉ ra hiện tượng kháng thuốc của một số chủng Streptococcus spp. đối với erythromycin, rifampicin và vancomycin. Hơn nữa, hiện tượng kháng cao, kháng hoàn toàn đối với kháng sinh rifampicin, erythromycin đã được báo cáo đối với vi khuẩn gây bệnh trên động vật thuỷ sản ở nước ta (Đoàn Thị Minh Châu và cs, 2018). Kết quả nghiên cứu này góp phần củng cố cho cảnh báo của chúng tôi về sự thận trọng trong việc sử dụng kháng sinh, làm tăng nguy cơ kháng kháng sinh. 3.2. Phân tích tính đơn kháng và đa kháng kháng sinh của các chủng Streptococcus spp. Tổng hợp kết quả kháng sinh đồ của từng chủng vi khuẩn Streptococcus spp. đối với 12 loại kháng sinh được lựa chọn để thử nghiệm cho thấy tất cả các chủng Streptococcus spp. thử nghiệm đều có hiện tượng đa kháng thuốc, kháng lại ít nhất từ 2 đến 6 loại kháng sinh. Các loại kháng sinh mà vi khuẩn Streptococcus spp. có hiện tượng kháng lại là streptomycin, neomycin, novobiocin, oxacilline, trimethoprim/sulfamethoxazole và ampicillin (bảng 3). Trong số đó, hiện tượng kháng kháng sinh streptomycin và neomycin của Streptococcus spp. có thể là hiện tượng kháng tự nhiên vì hai kháng sinh này có tác dụng tiêu diệt và kìm hãm vi khuẩn gram (-). Hiện tượng đa kháng thuốc đã và đang được ghi nhận đối với nhiều loài vi khuẩn gây bệnh trong NTTS ở trên thế giới và ở Việt Nam. Hiện tượng đa kháng thuốc đã được ghi nhận ở 16/17 chủng vi khuẩn Streptococcus spp. trong nghiên cứu của Osman et al. (2017), trong đó hiện tượng đa kháng thường gặp với các kháng sinh như ampicillin, vancomycin, chloramphenicol, rifampicin, tetracycline và erythromycin. Ở 32 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 2 - 2019 nước ta, hiện tượng đa kháng thuốc cũng được ghi nhận đối với các chủng vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh phát sáng trên tôm, E. ictaluri gây bệnh gan thận mủ trên cá tra và Aeromonas spp. gây bệnh trên cá nuôi nước ngọt (Đặng Thị Hoàng Oanh và cs, 2006; Từ Thanh Dung và cs, 2010; Đoàn Thị Minh Châu và cs, 2018). Streptococcus spp. đã có hiện tượng đa kháng tới 9 loại kháng sinh (Osman et al., 2017), Vibrio spp. đa kháng ít nhất 2 loại kháng sinh và nhiều nhất 6 loại (Đặng Thị Hoàng Oanh và cs, 2006), E. ictaluri đa kháng ít nhất 3 loại kháng sinh (Từ Thanh Dung và cs, 2010), A. hydrophila gây bệnh trên cá tra đa kháng với ít nhất 4 loại kháng sinh và nhiều nhất là 12 loại kháng sinh (Quách Văn Cao Thi và cs, 2014), và A. schubertii đa kháng với ít nhất 3 loại kháng sinh và nhiều nhất 9 loại kháng sinh, trong đó đa kháng 6 loại kháng sinh chiếm tỷ lệ cao nhất là 29,1% (Đoàn Thị Minh Châu và cs, 2018). Trong nghiên cứu này, Streptococcus spp. có hiện tượng đa kháng với ít nhất 2 loại kháng sinh và nhiều nhất 6 loại kháng sinh, trong đó kiểu hình đa kháng phổ biến là STH+NE+NV+SXT (bảng 3). Bảng 3. Tổng hợp tính đơn và đa kháng kháng sinh của các chủng Streptococcus spp. Chủng vi khuẩn Số loại kháng sinh thử nghiệm Loại kháng sinh kháng Nhạy cao (S) Nhạy TB (I) Kháng (R) Streptococcus sp. HDPT15.7 9 0 5 STH, NE, NV, OX, SXT Streptococcus sp. N15.3 5 3 6 STH, NE, NV, OX, SXT, AM Streptococcus sp. CED16.30 10 0 4 STH, NE, NV, SXT Streptococcus sp. CED16.31 9 0 5 STH, NE, NV, OX, SXT Streptococcus sp. CED17.042 11 0 3 STH, NE, NV S. agalactiae CED17.043 12 0 2 STH, NE IV. KẾT LUẬN Vi khuẩn Streptococcus spp. phân lập được từ cá rô phi và cá rô đầu vuông bị bệnh nuôi tại tỉnh Phú Thọ và Hải Dương có tính nhạy cao đối với kháng sinh tetracycline, doxycycline (nhóm tetracycline), florphenicol (nhóm phenicol), erythromycin và rifampicin (nhóm macrolide), vancomycin (nhóm đa peptid); nhưng có tính kháng đối với kháng sinh ampicillin và oxacillin (nhóm ß-lactam), trimethoprim/sulfamethoxazole (nhóm sulfamid/trimethoprim) và kháng hoàn toàn với streptomycin, neomycin (nhóm aminoglycoside) và novobiocin (nhóm đa peptid). Hiện tượng đa kháng thuốc cũng đã được ghi nhận ở các chủng Streptococcus spp., trong đó đa kháng với ít nhất 2 loại kháng sinh và nhiều nhất với 6 loại kháng sinh. Lời cảm ơn: Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn các cán bộ Trung tâm quan trắc môi trường và bệnh thuỷ sản miền Bắc, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I đã giúp đỡ, hỗ trợ trong quá trình triển khai thí nghiệm. Nghiên cứu này là một phần kết quả của dự án FAO/ FMM/RAS/298 “Nâng cao năng lực, chính sách và kế hoạch hành động quốc gia về sử dụng kháng sinh trong thuỷ sản một cách thận trọng và có trách nhiệm” do Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO) tài trợ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đoàn Thị Minh Châu, Lưu Hồng Mai và Từ Thanh Dung (2018). Khả năng nhạy với kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh đốm trắng nội tạng trên cá lóc (Channa striata) ở Trà Vinh. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần thơ. Tập 54, số chuyên đề Thuỷ sản (2): 108-115. 2. Từ Thanh Dung, Freddy Haesebrouck, Nguyễn Anh Tuấn, Partrick Sorgeloos, Margo Baele, và Annemie Decostere (2010). Hiện trạng kháng thuốc kháng sinh trên vi khuẩn Edwardsiella 33 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXVI SỐ 2 - 2019 ictaluri gây bệnh gan thận mủ trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ 15a: 162-171. 3. Trương Thị Mỹ Hạnh, Phạm Thị Yến, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Phan Thị Vân, Nguyễn Đình Vinh và Trương Thị Thành Vĩnh (2016). Hiện trạng sử dụng thuốc và tính kháng kháng sinh của Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tuỵ cấp ở tôm tại Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thuỷ sản, Đại học Nha Trang 4: 57-64. 4. Phạm Thanh Hương, Nguyễn Thiện Nam, Từ Thanh Dung và Nguyễn Anh Tuấn (2011). Sự kháng kháng sinh của vi khuẩn Edwardsiella ictaluri và Aeromonas hydrophila gây bệnh trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở đồng bằng sông Cửu Long. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thuỷ sản lần 4: 250-261. 5. Nguyễn Viết Khuê, Nguyễn Thị Hà, Trương Thị Mỹ Hạnh, Đồng Thanh Hà và Phạm Thành Đô (2009). Xác định nguyên nhân gây chết cá rô phi thương phẩm tại một số tỉnh miền Bắc. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ. 6. Lê Minh Long, Hans Bix and Ngô Thuỵ Diễm Trang (2015). Sử dụng thuốc và hoá chất trong ao nuôi cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh ở Đồng Tháp, Việt Nam. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề Môi trường và Biến đổi khí hậu: 18-25. 7. Đặng Thị Hoàng Oanh, Đoàn Nhật Phương, Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Thanh Phương (2006). Xác định vị trí phân loại và khả năng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn Vibrio phát sáng phân lập từ hậu ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon). Tạp chí nghiên cứu khoa học, Đại học Cần Thơ: 42-52. 8. Quách Văn Cao Thi, Từ Thanh Dung và Đặng Phạm Hoà Hiệp (2014). Hiện trạng kháng thuốc kháng sinh trên hai loài vi khuẩn Edwardsiella ictaluri và Aeromonas hydrophila gây bệnh trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ 2: 7-14. 9. VASEP (2018). Tổng quan ngành thuỷ sản Việt Nam. http:// vasep.com.vn/1192/OneContent/ tong-quan-nganh.htm 10. Bauer, A.W., Kirby W.M.M., Sherris J.C., and Truck M. (1966). Antibiotic susceptibility testing by a standardized single disc method. Am J Clin Pathol 45: 493 - 496 11. CLSI (2016). Performance standards for antimicrobial susceptibility testing., M100S. Clinical and Laboratory Standards Institute, Wayne, NJ. 26th Edition. 12. Dung, T.T., Haesebrouck F., Tuan N.A., Sorgeloos P., Baelem M. And Decostere A. (2008). Antimicrobial suscepbility pattern of Edwardsiella ictaluri isolate from natural outbreaks of bacilary necrosis of Pangasianodon hypophthalmus in Vietnam. Microbial Drug Resistance 14: 311-316. 13. FAO/OIE/WHO (2011). High-Level Technical Meeting to Address Health Risks at the Human- Animal- Ecosystems Interfaces. 14. Finley, R.L., Collignon P., Larsson D.G., McEwen S.A., Li X.Z., Gaze W.H., Reid-Smith R., Timinouni M., Graham D.W. and Topp E. (2013). The scourge of antibiotic resistance: the important role of the environment. Clin. Infect. Dis. 57, 704–10. 15. O’Neill, J. (2014). Antimicrobial Resistance: Tackling a crisis for the health and wealth of nations. The Review on Antimicrobial Resistance. 16. Osman, K.M., Al-Maary K.S., Mubarak A.S., Dawoud T.M., Moussa M.I., Ibrahim M.D.S., Hessain A.M., Orabi A. and Fawzy N.M. (2017). Charactezation and susceptibility of streptococci and enterococci isolated from Nile Tilapia (Oreochromis niloticus) shwoing septicaemia in aquaculture and wild sites in Egypt. BMC Veterinary Research 13: 357. 17. Pham, D.K., Chu J., Do N.T., Brose F., Degand G., Delahaut P., Pauw E.D., Douny C., Nguyen K.V., Vu T.D., Scippo M.L., and Wertheim F.I. (2015). Monitoring antibiotic use and residue in freshwater aquaculture for domestic use in Vietnam. Ecohealth 12: 480-489. 18. Prescott, J.F, Baggot J.D., and Walker R.D. (2000). Antimicrobial therapy in veterinary medicine. Iowa State University Press/Ames. 795 pages. 19. Rakesh, K., Naik G., Pinto N., Dharmakar P. Pai M., and Aniusha K.V. (2018). A review on drugs used in shrimp aquaculture. Int. J. Pure. App. Bioscin 6(4): 77-86. 20. Sarter, S., Kha N.H.N, Hung L.T., Jerome L.J. and Montet, D. (2007). Antibiotic resistance in gram-negative bacteria isolated from farmed catfish. Food Control 18: 1391-1396. 21. Silbergeld, E.K., Graham J. and Price L.B. (2008). Industrial Food Animal Production, Antimicrobial Resistance and Human Health. Annu. Rev. Public Health, 29: 151–169. 22. Toranzo, A.E., Magarin B., Romalde J.L. (2005). A review of the main bacterial fish diseases in mariculture systems. Aquaculture 246: 37-61. 23. Tusevljak, N., Dutil L., Rajic A., Uhland F.C., McClure C., St-Hilaire S. (2013). Antimicrobial use and resistance in aquaculture findings of a globally administered survey of aquaculture-allied professional. Zoonoses and Public health 60: 426-436. 24. Tran, T.K.C., Clausen J.H., Phan T.V., Terbol B. And Dalsgaard A. (2017). Use practices of antimicrobials and other compounds by shrimp and fish farmers in Northern Vietnam. Aquaculture Reports 7: 40-47. Ngày nhận 4-10-2018 Ngày phản biện 29-11-2018 Ngày đăng 1-3-2019
File đính kèm:
- xac_dinh_tinh_khang_thuoc_khang_sinh_cua_vi_khuan_streptococ.pdf