Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam
Khởi nghiệp là một công việc phức tạp mà quá trình thực hiện có thể thành công và
thất bại. Thị trường ngày càng có tính cạnh tranh cao không chỉ trong nước mà toàn cầu
càng làm gia tăng xác suất xảy ra thành công và thất bại có thể đạt đến tỷ lệ 50/50. Mỗi
ngành nghề và đất nước khởi nghiệp đều có thể tổng kết một cách khái quát kinh nghiệm
thành công và thất bại. Bên cạnh những biểu hiện có tính đặc thù, chúng vẫn có những điểm
tương tự nhau nhất là các quốc gia đều có nền kinh tế thị trường với những nguyên tắc vận
hành khống có sự khác biệt đáng kể. Chính vì thế các kinh nghiệm này có thể được học hỏi
lẫn nhau giữa các nước và chúng đóng vai trò định hướng quan trọng về nhận thức và hành
động ngay lúc khởi nghiệp cũng như cả giai đoạn sau đó. Các kinh nghiệm này để học hỏi
cần được chọn lọc để tránh vận dụng máy móc vào Việt Nam với những đặc thù nhất định
trong phát triển. Dưới đây là một số kinh nghiệm khởi nghiệp được các Viện nghiên cứu
chuyên về khởi nghiệp tổng kết có tính khái quát, mặc dù không nêu cụ thể từng trường hợp,
nhưng các tổng kết này đóng vai trò nhất định trong việc đưa ra đánh giá tổng thể về thành
công và thất bại của khởi nghiệp. Năm 2016 được xác định là năm khởi nghiệp của Việt
Nam và nằm trong lộ trình xây dựng một chính phủ kiến tạo, hành động và liêm chính. Đây
là một nhiệm vụ quan trọng nhằm khai thác các nguồn lực phát triển, giải quyết việc làm và
thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thành công và thất bại của khởi nghiệp: Một số kinh nghiệm nước ngoài và bài học đối với Việt Nam
định lấy năm 2016 làm năm khởi nghiệp quốc gia với mục tiêu xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động. Kể từ khi công bố mục tiêu này từ tháng 5/2016 đến hết năm 2016, có khoảng 110 nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp được thành lập. Khởi nghiệp đang dần trở thành một tập quán mới ở Việt Nam và đang thể hiện là một xu hướng quan trọng trong huy động và ở mức độ cao hơn là giải phóng mọi nguồn lực xã hội cả trong và 429 ngoài nước, tạo lực lượng sản xuất mới. Tuy nhiên, số khởi nghiệp thất bại cũng chiếm tỷ lệ không nhớ thường không dưới 10% số lượng khởi nghiệp trong vòng 1 năm đầu tiên. Các nỗ lực khởi nghiệp được chính phủ thể hiện thông qua hàng loạt quyết định quan trọng, thể hiện: - Công bố chủ trương xây dựng quốc gia khởi nghiệp với mục tiêu đến năm 2020, có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp khởi nghiệp và 2 triệu doanh nghiệp khởi nghiệp đến năm 2025, và 5 triệu doanh nghiệp khởi nghiệp sau năm 2025. Trong đó, mục tiêu doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao đạt tỷ lệ ít nhất 10%. Điều này thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ nhằm gia tăng nội lực của đất nước trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Thực tế cho thấy, sau 30 năm mở cửa và hội nhập quốc tế, số lượng doanh nghiệp Việt Nam, tính đến hết năm 2016, chỉ mới đạt con số khoảng 500 nghìn doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế với quy mô dân số 93 triệu dân nghĩa là cứ 186 người có 1 doanh nghiệp trong khi vẫn còn khoảng 200 nghìn người có trình độ cử nhân, đại học, cao đẳng, trung cấp và sơ cấp hoặc các cấp đào tạo cao hơn không có việc làm. Có thể khẳng định, đây là mục tiêu trung gian để phục vụ mục tiêu bao trùm là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”. - Ban hành nhiều chính sách quan trọng phục vụ cho công cuộc khởi nghiệp quốc gia như: + Nghị quyết 19 của Chính phủ (2013 và 2017) về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trọng tâm là hoàn thiện thể chế và cải cách thủ tục hành chính. Năm 2016, môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã tăng lên 9 bậc so với năm 2015. Điều này cho thấy nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh có tác dụng đáng kể trong đó có môi trường khởi nghiệp. + Đề án Thương mại hóa dự án khoa học và công nghệ quốc gia. + Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/05/2016 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”2 (Hộp 1) 2 Nếu xem xét với các nước trong khu vực, Thái Lan có phong trào nông dân Thái Lan 4.0 để tận dụng tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay cuộc cách mạng 4.0 chủ yếu dựa trên nền tảng số hóa để tiếp cận với công nghệ cao. 430 Hộp 1: Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Mục tiêu hỗ trợ được 800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp gọi được vốn thành công từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 1.000 tỷ đồng. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia. Đến năm 2025: - Hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; - Hỗ trợ phát triển 600 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; - 100 doanh nghiệp tham gia Đề án gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng. Đối tượng hỗ trợ của Đề án: i) Cá nhân, nhóm cá nhân có dự án khởi nghiệp; Doanh nghiệp khởi nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới; Doanh nghiệp khởi nghiệp có thời gian hoạt động không quá 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. ii) Tổ chức cung cấp dịch vụ, cơ sở vật chất - kỹ thuật, đầu tư, truyền thông cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hoạt động hiệu quả, đáp ứng các tiêu chí của Đề án. Cụ thể: Người đứng đầu có ít nhất 01 năm kinh nghiệm hoạt động tư vấn đầu tư, tài chính và hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp; Tổ chức có ít nhất 01 năm hoạt động, cung cấp dịch vụ cho ít nhất 10 nhóm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và đã đầu tư hoặc gọi vốn đầu tư được ít nhất 01 tỷ đồng cho các nhóm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam; Có quy trình hỗ trợ khởi nghiệp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thỏa thuận hợp tác với tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài về đầu tư, đào tạo, huấn luyện, tư vấn cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. *Nguồn: Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/ 05/ 2016 + Kết nối mạng khởi nghiệp Việt Nam với mạng khởi nghiệp toàn cầu từ đầu năm 2017. + Thành lập khoản tín dụng 100 nghìn tỷ đồng cho doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao, hỗ trợ 100% lãi suất. + Đề nghị bãi bỏ Điều 192 Bộ luật Hình sự để khuyến khích khởi nghiệp qua mạng + Tham gia giải quyết hiệu quả các vụ việc gây bức xúc dư luận như xử lý nghiêm minh trường hợp ra quyết định thiếu phù hợp của cơ quan chức năng đối với chủ quán cà phê “Xin chào” ở Thành phố Hồ Chí Minh, bảo đảm tính công bằng trong kinh doanh và thể hiện thái độ ủng hộ chủ doanh nghiệp của chính phủ. 431 - Đẩy mạnh triển khai công cuộc khởi nghiệp đến từng địa phương như thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu thành lập 500 ngàn doanh nghiệp khởi nghiệp, 400 nghìn doanh nghiệp đối với Hà Nội và 22 nghìn doanh nghiệp đối với Đà Năng đến năm 2020. Các địa phương cũng đã cụ thể hóa việc triển khai công cuộc khởi nghiệp này như Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh công bố chương trình hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2016 - 2020. Mỗi dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được hỗ trợ tương ứng tối đa lên tới 2 tỷ đồng cho mỗi dự án với thời gian tối đa 2 năm từ ngày 1/1/2017. - Đẩy mạnh công tác truyền thông khởi nghiệp đến với công chúng trong nước và nước ngoài thông qua các chương trình truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài tiếng nói Việt Nam, kênh truyền hình trung ương và địa phương, báo chí, tạp chí, mạng thông tin, các phong trào khởi nghiệp trong cơ sở giáo dục đại học, địa phương, các cuộc thi ý tưởng kinh doanhĐây là yếu tố cho thấy việc tạo dư luận ủng hộ khởi nghiệp được quan tâm thỏa đáng để khởi nghiệp trở thành một phong trào và thói quen mới có sức thu hút mạnh mẽ các đối tượng hữu quan. - Nhiều tổ chức và cá nhân tích cực và chủ động tham gia vào công cuộc khởi nghiệp như sẵn sàng cung cấp nguồn vốn, tư vấn khởi nghiệp, hỗ trợ trang bị kiến thức, kinh nghiệm, đào tạo kỹ năng cũng như chia sẻ thông tin và mạng lưới khởi nghiệp. Bên cạnh những thành công trên đây, theo tác giả, công cuộc khởi nghiệp của Việt Nam vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, thể hiện: - Hiệu lực của chính sách khởi nghiệp trực tiếp tác động tới công chúng chưa cao, đặc biệt thủ tục vẫn còn rườm rà. Chẳng hạn, theo ý kiến của chủ khởi nghiệp, để tiếp cận nguồn vốn khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp thực hiện thông qua các ngân hàng thương mại, chủ khởi nghiệp phải nhận được ý kiến đồng ý của Liên minh hợp tác xã, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ý kiến của lãnh đạo tỉnh, khoảng thời gian hoàn thành các loại thủ tục này mất khoảng 6 tháng. Cho đến nay, chưa có một chủ khởi nghiệp nào tiếp cận được nguồn vốn này. - Cách hiểu nội dung văn bản quy định còn chưa thống nhất giữa cơ quan ban hành và cơ quan thực hiện, có trường hợp tiêu chuẩn sử dụng để đánh giá chưa rõ ràng như thiếu các tiêu chí khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong nông 432 nghiệp. Điều này gây lúng túng trong quá trình thực hiện nhất là trong thẩm định hồ sơ yêu cầu tiếp nhận hỗ trợ từ phía nhà nước. Do bản chất là nền kinh tế thị trường cho nên quá trình cạnh tranh diễn ra liên tục, gay gắt tạo ra áp lực rất lớn đối với các chủ khởi nghiệp. Điều này dẫn đến kết quả là số lượng khởi nghiệp được thành lập và số lượng khởi nghiệp duy trì hoạt động ổn định, lâu dài có sự khác nhau đáng kể. Hơn nữa, do tác động của xu hướng tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường, hàng nhập khẩu gia tăng làm tăng cạnh tranh trên thị trường, khởi nghiệp ngày càng khó khăn. Kinh nghiệm của các chủ khởi nghiệp ở Việt Nam cho thấy nếu các khởi nghiệp tồn tại được trong vòng 5-6 năm nghĩa là có khả năng duy trì được hoạt động lâu dài. Điều này tương đương với chính sách hỗ trợ của khởi nghiệp gắn với giai đoạn 5 năm đầu của Ấn Độ thường là khó khăn nhất đối với chủ khởi nghiệp. Một số giải pháp áp dụng kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện Việt Nam Những kinh nghiệm quốc tế gồm thành công và thất bại của khởi nghiệp có thể áp dụng vào điều kiện Việt Nam khi Việt Nam đang trong giai đoạn đầu thực hiện mục tiêu thành lập quốc gia khởi nghiệp. Đối với Chính phủ, cần tiếp tục chủ trương xây dựng chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động để tạo nhận thức đầy đủ, toàn diện và triệt để trong phục vụ khởi nghiệp. Có thể khẳng định nếu không khởi nghiệp hiệu quả, đất nước sẽ khó phát huy và khai thác hết nguồn lực, mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 khó thực hiện được. Chủ trương này cần quán triệt đầy đủ trong các cơ quan chức năng như các bộ, ban, ngành, sở, chính quyền địa phương. Sự đồng hành của chính phủ và công cuộc khởi nghiệp nên mở rộng về quy mô, phạm vi và nâng tầm ảnh hưởng để chủ trương này được tất cả các tổ chức, cá nhân, thành viên, cộng đồng nhận thức đầy đủ và tự giác, sáng tạo thực hiện. Các chủ trương, chính sách thúc đẩy khởi nghiệp cần được ban hành và hoàn thiện trong tất cả các lĩnh vực để huy động triệt để mọi nguồn lực phát triển và mọi lực lượng cả trong và ngoài nước, mọi lứa tuổi. Chẳng hạn, bên cạnh coi trọng khởi nghiệp công nghệ cao hoặc lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao có thể khuyến khích khởi nghiệp trong các lĩnh vực khác như lĩnh vực dịch vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa trực tiếp hoặc qua mạng, dịch vụ vui chơi, giải trí, giáo dục, thể dục, thể thao, Chính phủ cần có bộ phận tư vấn khởi nghiệp chuyên nghiên cứu về mô hình khởi nghiệp thuộc các ngành nghề, tập hợp được đông đảo chuyên gia khởi nghiệp trong và ngoài nước, kể cả chuyên gia nước ngoài để hoạch 433 định chính sách và đề xuất khuôn khổ vận hành, giải pháp và công cụ khởi nghiệp phù hợp với điều kiện Việt Nam. Hệ thống thông tin, sàn giao dịch khởi nghiệp cần được xây dựng và kết nối liên thông trong nước và ngoài nước, tiếp cận hấp dẫn và thuận lợi đối với tất cả các đối tượng quan tâm. Các loại quỹ hỗ trợ khởi nghiệp như quỹ mạo hiểm, quỹ đầu tư thiên thần, vườn ươm khởi nghiệp, lồng ấp chủ khởi nghiệp cần được xây dựng để tạo điều kiện cho những cá nhân, tổ chức có nhu cầu khởi nghiệp có thể trải nghiệm, loại bỏ các bước đi thăm dò và mò mẫm ban đầu. Có thể có biện pháp khuyến khích khởi nghiệp ở nước ngoài và chuyển giao các mô hình khởi nghiệp đó về Việt Nam. Việc tăng cường công tác truyền thông về xây dựng và phát triển một quốc gia khởi nghiệp thực sự cần được đầu tư nhiều hơn để nâng cao nhận thức và tạo dư luận ủng hộ khởi nghiệp từ nhà trường, gia đình, xã hội, tổ chức và từng người dân. Đối với chủ khởi nghiệp, cần xác định khởi nghiệp là một công việc phức tạp, bên cạnh lạc quan và niềm tin về sự thành công do nhận được sự ủng hộ cao nhất của Chính phủ còn đòi hỏi chủ khởi nghiệp tự rèn luyện bản lĩnh của chủ khởi nghiệp như luôn đặt mục tiêu cao và rõ ràng để phấn đấu, sẵn sàng chấp nhận rủi ro và biết tận dụng, khai thác cơ hội đúng thời điểm. Điều này đòi hỏi có môi trường rèn luyện và hướng dẫn, tư vấn khởi nghiệp phù hợp. Các mô hình cá nhân khởi nghiệp thành công từ các ngành nghề thông thường đến các lĩnh vực công nghệ cao, chuyên sâu cần được tổng kết và nhân thành điển hình để từng cá nhân có thể học hỏi. Đồng thời, từ kinh nghiệm quốc tế có thể xây dựng thói quen kiểm định năng lực nhận thức và hành động theo các tiêu chí đánh giá thành công và thất bại của khởi nghiệp để điều chỉnh chiến lược, chính sách, thái độ, hành vi cũng như rèn luyện kỹ năng ứng xử trong các tình huống phức tạp kể cả ở trong trạng thái bất định, khó lường. Ngoài kỹ năng cứng về kiến thức, cần có kỹ năng dự báo thị trường, kỹ năng kết nối quan hệ, kỹ năng phân tích cơ hội và kỹ năng sử dụng các nguồn lực để sáng tạo giá trị lớn nhất trong cạnh tranh khởi nghiệp, tuyệt đối tránh tư tưởng trông chờ, ỷ lại trong khởi nghiệp. Tài liệu tham khảo 1. APEC (2016), Thái Lan 4.0: Doanh nghiệp nhỏ và vừa của Thái Lan 4.0, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ: . 2. Diễn đàn kinh tế thế giới (2016), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu, truy cập lần cuối ngày 8/3/3017, từ: <https://www.weforum.org/reports/the-global- competitiveness-report-2016-2017-1>. 434 3. Đại học Kinh tế Quốc dân (2016), Bài trình bày của chuyên gia Hàn Quốc về phương pháp định giá tài sarntris tuệ. Phòng họp A gác 2 nhà 10. Phần về “thung lũng chết” khi đưa sản phẩm đổi mới sáng tạo vào thị trường. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011, 2016), Văn kiện Đại hội XI, XII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 5. CBInsight, 20 lý do hàng đầu để khởi nghiệp thất bại, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2017, từ: . 6. Chính phủ (2016), Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng 05 năm 2016 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2016, từ: < ph%E1%BB%A7-h%E1%BB%97-tr%E1%BB%A3-h%E1%BB%87-sinh- th%C3%A1i-kh%E1%BB%9Fi-nghi%E1%BB%87p.aspx>. 7. Chính phủ (2015), Đề án Thương mại hóa công nghệ với quy mô dự án khoa học và công nghệ cấp quốc gia đến năm 2020. 8. European Young Innovators Forum (2014), Đạo luật khởi nghiệp của Châu Âu, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ: < content/uploads/European-Startup-Act-2020.pdf>. 9. Forbe (2013), Khởi nghiệp là gì?, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ: < https://www.forbes.com/sites/natalierobehmed/2013/12/16/what-is-a- startup/#11e0dc4e4044>. 10. Harvard University (2011), Startup Guide, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ: . 11. Imal Y., Kawagoe M., (2000), Khởi sự kinh doanh ở Nhật Bản: vấn đề và chính sách, truy cập lần cuối ngày 8/3/2017, từ < file:///C:/Documents%20and%20Settings/Admin/My%20Documents/Downlo ads/OREP-imai-kawagoe.pdf>. 12. Ministry of Commerce and Industry of India (2016), The Gazette of India, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2016, từ: < otification.pdf>. 13. Quốc hội (2016), Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cổng thông tin điện tử Chính phủ. 14. Trung tâm phát triển công nghệ và kinh doanh nhỏ (2015), Khởi nghiệp kinh doanh ở Bắc Carôlina, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2017, từ . 15. Viện phát triển bền vững quốc tế spen (2006), các yếu tố thành công của khởi nghiệp, truy cập lần cuối từ ngày 8 tháng 3 năm 2017, từ: . 16. Wikipedia (2007), Khởi nghiệp là gì? truy cập lần cuối ngày 10 tháng 3 năm 2017, từ: .
File đính kèm:
- thanh_cong_va_that_bai_cua_khoi_nghiep_mot_so_kinh_nghiem_nu.pdf