Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 12 - Tháng 12/2018
I. GIỚI THIỆU
Cá rô phi là tên gọi phổ biến của 03 nhóm cá thuộc họ Cichlidae: Tilapia, Sarotherodon và Oreochromis. Ở Việt Nam, cùng với cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) cá rô phi đỏ (Oreochromis sp.) là loài cá nước ngọt quan trọng thứ hai sau cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) (Merican, 2011). Sản lượng xuất khẩu của cá rô phi vằn và cá rô phi đỏ tăng trong những năm gần đây từ 171.360 tấn vào năm 2015 lên 200.000 tấn vào năm 2017 (Tổng cục Thủy sản, 2016). Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất cá rô phi chính cho cả nước. Cá rô phi đỏ được nuôi phổ biến trong bè và trong ao. Phần lớn sản lượng cá rô phi đỏ từ nuôi bè (Merican, 2011), cá nuôi ao chủ yếu tiêu thụ trong gia đình và các chợ nội địa. Chương trình chọn giống cá rô phi đỏ được thực hiện từ năm 2010 cho tính trạng tăng trưởng nhanh (khối lượng cá khi thu hoạch) và màu sắc đẹp (Trọng và ctv., 2017). Sau 4 thế hệ chọn lọc, các tính trạng tăng trưởng và màu sắc đã cải thiện đáng kể. Đối với cá rô phi đỏ, các chỉ tiêu của tính trạng sinh sản như số trứng trên cá cái, tỉ lệ nở, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ sống của cá bột đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất giống. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu ảnh hưởng (di truyền) của khối lượng cá cái tham gia sinh sản lên đặc điểm sinh sản của cá. Đặc điểm sinh sản được phân thành hai nhóm tính trạng là mức độ sinh sản và hiệu quả sinh sản. Hai nội dung chính của nghiên cứu là 1) ước tính hệ số di truyền của tính trạng mức độ sinh sản gồm các chỉ tiêu số lượng trứng, khối lượng trứng/cá cái, và tính trạng hiệu quả sinh sản cho các chỉ tiêu như tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ nở, tỉ lệ sống cá bột 10 ngày tuổi, 2) ghi nhận tương quan di truyền của tính trạng sinh sản với khối lượng cá mẹ lúc sinh sản
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 12 - Tháng 12/2018
Long) Qua tự phân tích đánh giá các kết quả cho thấy học viện đã nhận biết được các loại sâu bệnh và thiên địch chính trên lúa và biện pháp quản lý chúng, nắm được kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV an toàn, hiệu quả và rủi ro do thuốc BVTV đem lại nếu quá lạm dụng vào chúng. Nhiều học viên áp dụng đúng kỹ thuật vào sản xuất và đã mang lại những kết quả tích cực: Sản lượng lúa tăng trong khi số lần phun thuốc hóa học giảm, thiên địch được bảo vệ, dịch hại trên đồng ruộng được quản lý (Bảng 2). Nắm được đặc điểm của loài chuột hại, biện pháp quản lý, vai trò của thiên địch và ứng dụng thiên địch trong phòng chống sâu hại. Biết tự ra quyết định các biện pháp xử lý đồng ruộng. Hiểu rõ hơn về mối quan hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa vật nuôi (tôm, cá) và cây trồng (cây lúa) trong hệ sinh thái đồng ruộng. Phải chú trọng cả hai đối tượng vật nuôi và cây trồng, không xem nhẹ đối tượng nào; bởi chất thải của vật nuôi sẽ là nguồn dinh dưỡng cho cây lúa hấp thụ sinh trưởng; và ngược lại, rơm, rạ từ cây lúa sẽ là nguồn dinh dưỡng tự nhiên cho vật nuôi. Việc quan tâm đồng bộ cả vật nuôi và cây trồng giúp được đất canh tác có điều kiện giải mặn, tích ngọt tốt. Qua lớp huấn luyện đã giúp nông dân có được nhận thức về tầm quan trọng của việc thiết kế công trình ao (ruộng) nhằm đáp ứng tốt cho sự phát triển của hai đối tượng là con tôm và cây lúa trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay. Người dân canh tác lúa - tôm phải tính toán thời gian ương tôm càng xanh (ở ao ương) hoặc tận dụng mương vườn, bờ líp gieo mạ sẵn để khi cải tạo, rửa mặn triệt để xong có mạ cấy liền. Việc ương dưỡng tôm giống trước hay gieo mạ sẵn nhằm giúp cho thời gian nuôi tôm và thời gian trồng lúa được kéo dài hơn. Trên cơ sở đó chủ động trong việc rửa mặn, điều tiết nước ngọt, hạn chế xâm nhập mặn. Có 80 - 90% học viên tham gia lớp huấn luyện có khả năng truyền đạt và hướng dẫn cho người khác cùng làm theo. 3.6. Hiệu quả sản xuất Qua số liệu tổng hợp cho thấy tại 15 lớp huấn luyện nông dân trên ruộng thực nghiệm trung bình đã giảm được 0,67 lần phun thuốc BVTV, giảm được 5,1 kg đạm/ha, tăng được trung bình 89,6 kg lúa/ha (tương đương 1,56%) và tăng trung bình 1.246,1080 đ/ha lúa. Việc giảm số lần phun thuốc và phân bón chưa nhiều do vụ lúa - tôm năm 2017, thời tiết thuận lợi nên 97TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II lượng phân bón cho lúa rất thấp, đồng thời qua lớp học nông dân áp dụng và ruộng sản xuất gia đình theo hướng quản lý dịch hại tổng hợp nên hạn chế sử dụng thuốc. Bảng 5. Về hiệu quả sản xuất lúa của ruộng thí nghiệm so với đối chứng Lớp số Số lần phun thuốc giảm (lần/vụ) Lượng phân đạm bón giảm (kg/ha) Năng suất lúa tăng Hiệu quả kinh tế tăng (đ/ha) Ghi chú(kg/ha) (%) 1 0 0 100 1,5 840.000 Giảm giống và công 2 1 3,5 70 1,2 1.341.250 3 0 0 110 1,7 679.000 Giảm giống và công 4 2 7,3 -200 -3,1 707.187 5 1 1,2 70 1,4 1.811.000 6 0 0,93 100 1,8 991.333 7 0 11,2 70 1,1 839.466 8 2 7,2 53,3 1,0 2.029.000 9 1 10 157 2,6 2.378.000 10 1 1,3 40 0,8 945.000 11 1 12,5 100 1,0 1.760.000 12 1 8,3 125 1,0 1.942.500 13 0 6,8 100 1,6 641.000 14 0 0 -0,1 -0,4 -165.000 Giảm giống 15 0 6,5 448 10,1 1.951.890 Trung bình 0,67 5,1 89,6 1,6 1.246.108 Những điểm mới về thực hành canh tác của người dân tham gia lớp học hiện trường và nông dân canh tác theo tập quán hiện nay được trình bày trong Bảng 6. Bảng 6. Về sự thay đổi thực hành canh tác tôm càng xanh Chỉ tiêu Nông dân học FFS Nông dân canh tác theo tập quán Thiết kế ao/ ruộng nuôi Có ao ương tôm càng xanh trước khi thả ra ruộng lúa Thả tôm trực tiếp ra ruộng lúa nên tỷ lệ sống thấp Cải tạo ao/ ruộng nuôi Thực hiện đúng quy trình kỹ thuật: Gia cố bờ, sên vét lớp bùn non ở đáy ao, lấy nước vào ngâm 3-5 ngày sau đó xả cạn, bón vôi CaO đáy và bờ ao...sau đó tiến hành thả tôm giống vào ao ương. Không quan tâm đến công tác cải tạo ao/ruộng, sên vét và lấy nước vào sau đó thả tôm trực tiếp vào ao/ruộng. Quản lý môi trường, sức khỏe tôm càng xanh, động vật thủy sinh Quản lý tốt các thông số môi trường quan trọng như: pH, độ kiềm, độ trong. Định kỳ sử dụng vi sinh, vôi, zeolite, để điều chỉnh môi trường nước ao ương tôm càng xanh. Sau 1,5 tháng từ khi chuyển tôm từ ao ương sang thay 10 - 20% nước từ ao lắng. Cho tôm ăn theo trọng lượng thân, điều chỉnh thức ăn một cách hợp lý. Năng suất tôm nuôi đạt được phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, không áp dụng các biện pháp kỹ thuật để quản lý môi trường ao nuôi, không quan tâm nhiều đến động vật thủy sinh. 98 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.7. Tổng kết đánh giá lớp học Tổng số 442 chứng chỉ đã phát ra. Truyền thông rộng rãi về kết quả cũng như phương pháp huấn luyện cho nông dân trên các phương tiện thông tin đại chúng như website của Sở Nông nghiệp và PTNT, đài truyền thanh của huyện Phước Long - Bạc Liêu và đài truyền hình tỉnh Bạc Liêu. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1. Kết luận Việc thực hiện kỹ thuật FFS đã nâng cao năng lực hoạt động cho người dân, cán bộ khuyến nông từ tỉnh xuống huyện góp phần nâng cao thu nhập cho hộ gia đình tại huyện Phước Long. Phương pháp FFS tác động tích cực trong việc thay đổi nhận thức của người dân trong canh tác, từng bước hướng sản xuất hàng hoá, chất lượng và an toàn đáp ứng nhu cầu của thị trường. Với kết quả đạt được thông qua các chủ đề học tập, có thể khẳng định phương pháp lớp học hiện trường là một trong những phương pháp khuyến nông phù hợp và hiệu quả cần được nhân rộng hơn cho tỉnh trong thời gian tới. Học viên được chiêm nghiệm thực tế thông qua điều tra hệ sinh thái đồng ruộng hàng tuần, được học các biện pháp kỹ thuật canh tác và bảo vệ cây trồng... tăng cường khả năng chủ động của nông dân trong quyết định ứng dụng các biện pháp kỹ thuật. Đảm bảo an toàn dịch bệnh, tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Giảm chi phí sản xuất nhất là chi phí BVTV, tăng hiệu quả kinh tế. Đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng. Lập lại cân bằng sinh thái tự nhiên góp phần phát triển nông nghiệp bền vững. Phương pháp lớp học hiện trường là phương pháp cần được áp dụng trong công tác khuyến nông, giúp người nông dân thực hành ngay trên lớp, học lý thuyết đi đôi với thực hành. Với phương pháp này, nông dân được tham gia trực tiếp từ khâu chọn giống, thâm canh, đến khâu thu hoạch, bảo quản, người học được quyền lựa chọn nội dung học tập, thời gian, địa điểm “lên lớp” và sẽ được áp dụng phổ biến trong công tác khuyến nông của tỉnh Bạc Liêu từ nay đến những năm sau. 4.2.Những khó khăn và hướng khắc phục Phần lớn nông dân đã quen với phương pháp tập huấn một chiều, ít thảo luận, phát biểu nên áp dụng phương pháp học tại đồng ruộng (FFS) đã gây khó khăn trong quá trình thực hiện (1-2 tuần đầu). Do đặc thù của lớp học là tiến hành vào buổi sáng để quan sát sâu hại và thiên địch nhưng nông dân bận việc đồng án nên đôi lúc đi học chậm hơn so thời gian quy định. Địa phương chưa hoàn thiện về hệ thống đê bao, chưa thành lập các tổ chức: HTX, tổ sản xuất để tiếp nhận và nhân rộng mô hình. Nông dân tiên tiến còn ít, đa số nông dân có ruộng manh mún, mặt ruộng chưa bằng phẳng. Một số hộ do thiếu vốn, sợ rủi ro, vẫn còn tập quán sản xuất: sạ lượng giống cao, bón lượng phân đạm cao... Mô hình tôm - lúa vẫn còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết từng năm. Kỹ thuật rửa mặn và áp dụng các phương pháp rửa, cũng như cải tạo ruộng nuôi còn hạn chế ở một số nông dân. 4.3. Bài học kinh nghiệm Cần có sự nhất quán trong nhận thức của người dân, cũng như các cấp, các ngành về lợi ích của việc canh tác mô hình này, có như vậy thì việc triển khai các lớp huấn luyện sẽ thuận lợi hơn. Có sự hỗ trợ quyết liệt của chuyên gia từ đơn vị tư vấn đến địa phương trong chỉ đạo, chuyển giao khoa học kỹ thuật thì hiệu quả, năng suất sẽ tăng. Hạn chế cá, cua hại lúa khi mới sạ lúa Thiết kế ao ương để khi lúa đẻ nhánh rộ rồi mới thả tôm từ ao ương vào ruộng lúa Không quan tâm đến ao ương 99TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Những hộ nông dân nào có đủ điều kiện như công trình hoàn chỉnh, trang thiết bị đầy đủ kết hợp với kỹ năng quản lý tốt, chịu khó trong trao đổi, học tập tại đồng ruộng và mạnh dạn ứng dụng vào thực tiễn thì sản xuất đạt hiệu quả. 4.4. Đề xuất Mô hình canh tác lúa - tôm là mô hình thông minh thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, tuy nhiên những năm tiếp theo mô hình này gặp rất nhiều khó khăn, năng suất tôm, lúa không ổn định, nhiều dịch bệnh trên tôm xảy ra liên tục trên diện rộng và sâu hại trên lúa cũng xảy ra thường xuyên do biến đổi khí hậu, những cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất, đất canh tác có xu hướng nhiễm mặn cao hơn trong khi điều kiện của người dân phần lớn là khó khăn nên các ban, ngành của địa phương nên quan tâm chỉ đạo sản xuất, đầu tư mô hình tôm - lúa cho vùng canh tác lúa - tôm trong tỉnh nhằm áp dụng biện pháp kỹ thuật tiên tiến đạt hiệu quả cao. Trong sản xuất người dân vẫn chưa thay đổi tập quán canh tác cũ nên hiệu quả kinh tế trung bình của mô hình này nhiều năm qua thấp so với tiềm năng đất sản xuất, nguy cơ rủi ro do dịch bệnh, sâu hại cao trong khi phương pháp tập huấn FFS mang lại hiệu quả rất cao, do đó FFS nên tiếp tục được tổ chức để nông dân nâng cao kiến thức, kỹ năng sản xuất, tăng cường khả năng chủ động của nông dân trong quyết định ứng dụng các biện pháp kỹ thuật. Đảm bảo an toàn dịch bệnh, tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Đoàn Văn Bảy và ctv., 2015. Thích ứng thông minh với biến đổi khí hậu (CSA): Mô hình luân canh tôm-lúa tại huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng. Hội nghị tái cơ cấu ngành Nông nghiệp tỉnh Sóc Trăng 2015. Đoàn Văn Bảy, 2016. Đánh giá tác động về kinh tế xã hội của việc nuôi tôm thất bại đối với mô hình tôm – lúa và bán thâm canh qui mô nhỏ ở Sóc Trăng và Bạc Liêu. The 9th Vietnamese - Hungarian International conference. Đoàn Văn Bảy, 2018. Bền vững cùng mô hình tôm lúa. Tạp chí Thuỷ sản Việt Nam Số 9 (280). Phan Thanh Lâm và Đoàn Văn Bảy, 2015. Phát triển hệ thống nuôi tôm-lúa & cá-lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Báo cáo kỹ thuật Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật CHLB Đức (GIZ). Chương trình Quản lý tổng hợp ven biển (ICMP). Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thân tỉnh Bạc Liêu, 2018. Báo cáo Tổng kết mô hình tôm – lúa tỉnh Bạc Liêu năm 2017. Tài liệu tiếng Anh Doan Van Bay et. al., 2017. Assessment of causes and impacts of failed intensive shrimp farming and piloting sustainable shrimp farming in Bac Lieu and Soc Trang provinces, Vietnam. Technical report for FAO (TCP/VIE/3502.04). FAO, 2013. Climate-Smart Agriculture Sourcebook. FAO, Rome. FAO, 2014. FAO success stories on climate smart agriculture, Rome, pp 23. FAO, 2016. Farmer Field School Guidance document: Planning for quality programmes. ISBN 978-92-5-109126-5. 100 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ESTABLISHMENT AND OPERATION OF FARMER FIELD SCHOOL ON INTEGRATED RICE – SHRIMP FARMING SYSTEM Doan Van Bay1∗, Nguyen Hoang Linh2, Ngo Tien Dung2, Huynh Quoc Khoi3, Nguyen Phuong Hung3, Le Kim Yen3, Dang Bich Duy3, Pham Hoang Vu3, Dương Minh Thuy3, Truong Chi Linh3, Tran Thanh Hai3 ABSTRACT This study was undertaken to apply a field-based training method that found and developed by the Food and Agriculture Organization (FAO). Farm field school was applied to farmers cultivating on the integrated rice – shrimp farming system in Bac Lieu province. Implementing organizations have coordinated with the Professional Agency and Local authorities to select sites, draw up a list of participants in the class, design the program, allocate staff and define the contents. Farm field schools are supervised, evaluated and analyzed for learning outcomes during the trainning time. A total of 250 participants were surveyed to develop the contents of the program, from which 15 training classes were organized in four communes and one town in Phuoc Long district, Bac Lieu province. Each training class carries out actual field experimentations which are practiced through weekly field ecosystem analysis. This approach has positively impacted on changing people’s perceptions of shrimp culture and rice farming. After 4 months of implementation 442 farmers completed the program. There are 80 - 90% of participants in the training classes are able to communicate and guide others to follow this farming practices. Farm field school training is a method that needs to be applied in extension work to increase farmers’ activeness in deciding on the application of technical measures. The research team also presented difficulties and solutions, lessons learned and recommendations when applying this training method. Keywords: farm field school, integrated rice – shrimp farming system. Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm Ngày nhận bài: 13/12/2018 Ngày thông qua phản biện: 20/12/2018 Ngày duyệt đăng: 28/12/2018 1 Deparment of Fisheries ecology and Aquatic resource, Research Institute for Aquaculture No. 2 2 Food and Agriculture Organization of the United Nations in Viet Nam 3 The Bac Lieu Agriculture Extension Center * Email: dvbayvn@icloud.com
File đính kèm:
- tap_chi_nghe_ca_song_cuu_long_so_12_thang_122018.pdf