Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 04/2014
TÓM TẮT Báo cáo này trình bày kết quả phân tích tăng trưởng đàn tôm càng xanh chọn giống thế hệ thứ 5 thu hoạch năm 2013. Số liệu phân tích dựa trên 5.820 cá thể được cân khối lượng tổng. Theo kết quả thu được, khối lượng tôm đạt trung bình 32,5 ± 17,4 g sau 4 tháng nuôi sau đánh dấu, trong đó tôm cái có khối lượng trung bình 27,5 ± 7,1 g và của tôm đực là 43,9 ± 26,3 g. Tỷ lệ tôm cái cao (69,4 %), chiếm ưu thế về số lượng trong đàn. Tỷ lệ tồn dấu trên tôm nuôi đến thời điểm thu hoạch là 98,7 %. Tỷ lệ mất dấu trên tôm cái (1 %) thấp hơn tôm đực (2 %). Hệ số di truyền tính trạng khối lượng cơ thể ở mức trung bình (0,18 ± 0,04), cao ở tôm cái (0,47 ± 0,10) và rất thấp ở tôm đực (0,08 ± 0,03). Tương quan di truyền giữa tôm cái và tôm đực 0,81 ± 0,10 là tương đối lớn, cho thấy khả năng chọn lọc gián tiếp con đực qua con cái có thể mang lại hiệu quả cải thiện tăng trưởng của đời con. Từ khóa: Tôm càng xanh, chương trình chọn giống, hệ số di truyền, tương quan di truyền, tăng trưởng I. GIỚI THIỆU Các nghiên cứu sâu về cấu trúc quần đàn tôm càng xanh và các cơ chế điều khiển tăng trưởng trên đối tượng này đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ rất sớm, khi nghề nuôi tôm càng xanh mới bắt đầu (Barki, 1992; Barki, 1997; Karplus, 1995; 1992a; 1986a; b; 1992b; Wohlfarth, 1985). Sự phân bố khối lượng lớn giữa các kiểu hình tôm trưởng thành và đặc biệt là trên tôm đực là một rào cản rất lớn cho việc tăng năng suất tôm nuôi. Khối lượng phân bố lớn phản ánh cấu trúc phức tạp của quần đàn, bao gồm ba loại kiểu hình của tôm đực: đực càng xanh, đực càng cam và đực nhỏ, mà rất khác nhau ở hình thái, sinh lý và hành vi. Tương tác trong quần đàn giữa tôm giống (juvenile) và tôm trưởng thành (mature) ảnh hưởng đến tăng trưởng của quần đàn (Karplus, 2005). Từ đó, Karplus (2005) nêu ra bốn cơ chế đã điều khiển tăng trưởng ở tôm càng xanh: (1) cạnh tranh thức ăn (chiếm đóng vùng lãnh thổ riêng), (2) sự thèm ăn thịt nhau (hao hụt), (3) gia tăng tiêu tốn năng lượng (đánh nhau) và (4) một nhóm cá thể hoạt động mạnh (bơi lội tránh sự đuổi bắt như kiểu hình đực nhỏ). Tất cả các cơ chế này đều liên quan đến tính hung hăng của tôm và trật tự xã hội của loài này. Theo VázquezAcevedo (2009), tập tính hung hăng có liên quan đến một loại neuropeptide điều khiển việc chiếm giữ vùng lãnh thổ riêng đối với tôm càng xanh và tôm càng cam. Sự ảnh hưởng của màu sắc càng cũng được nhắc tới trong nghiên cứu của Karplus (1992a), một kết quả khác cho thấy việc cắt càng trên tôm có thể dẫn tới kích cỡ quần đàn đồng đều hơn và tăng tỷ lệ sống (Karplus, 1992a). Một vài minh chứng cho thấy tương tác trong quần đàn đóng vai trò lớn ở tăng trưởng tôm càng xanh; việc loại bỏ các cá thể
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long - Số 04/2014
g and Bassac rivers to determine the development model for sustainable catfish farming throughout each region and the whole area in the most appropriate way. The results showed that the scale of catfish farming development in provinces along the Mekong river and Bas- sac river in 2020 was determined at 3 levels: (i) low level: yield: 1,563,503 tons, area: 7,774 ha; (ii) Moderate level: yield: 2,102,558 tons, area: 10,414 ha; (iii) high level: yield: 2,641,614 tons, area: 13,053 ha. However, the planning for catfish farming should be applied at moderate level since this level does not require high socio-economic development but still ensure fish production; and it is important to ensure the environmental carrying capacity of Mekong and Bassac rivers. Keywords: catfish, environmental carrying capacity, Mekong Delta, planning, sustainability. Người phản biện: ThS. Nguyễn Văn Trọng Ngày nhận bài: 10/8/2014 Ngày thông qua phản biện: 26/8/2014 Ngày duyệt đăng: 05/9/2014 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic - Research Institute for Aquaculture No.2. 2 Research Institute for Aquaculture No.2. * Email: luuducdienria2@yahoo.com 170 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Thông tin khoa học CHƯƠNG TRÌNH CHỌN GIỐNG TÔM SÚ (Penaeus monodon) THEO TÍNH TRẠNG SINH TRƯỞNG TẠI VIỆN NCNTTS2 Đinh Hùng1 Tôm sú Penaeus monodon (Fabricius, 1798) là một trong những đối tượng nuôi thủy sản có giá trị kinh tế cao và được xuất khẩu đi nhiều nước. Vì vậy, chọn giống nhằm hướng tới việc chủ động sản xuất tôm bố mẹ sạch bệnh, có chất lượng di truyền tốt là cần thiết. Trên cở sở tiếp nhận những kết quả đạt được từ hai nghiên cứu 1) Gia hoá khép kín vòng đời và sản xuất tôm sú bố mẹ và tôm sú giống sạch bệnh và 2) Ứng dụng công nghệ sinh học và các công nghệ khác nhằm nâng cao sức sinh sản của tôm sú (Penaeus monodon) bố mẹ nuôi trong điều kiện nhân tạo, Viện NCNTTS2 đã mạnh dạn tiến hành chương trình chọn giống trên tôm sú. Mục tiêu của chương trình nhằm tạo ra nguồn vật liệu ban đầu có tính đa dạng di truyền cao và chọn lọc nâng cao tốc độ sinh trưởng tôm sú. Vật liệu gốc bao gồm bốn dòng tôm sú bố mẹ có nguồn gốc địa lý khác nhau trong đó ba dòng có nguồn gốc tự nhiên là Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, tôm tự nhiên của Việt Nam (thu thập từ Cà Mau, Đà Nẵng, Phú Yên) và nhóm thứ tư là dòng tôm Gia hóa. Tất cả tôm bố mẹ sau khi thu thập đều được tầm soát các loại mầm bệnh virus nguy hiểm bao gồm: WSSV, YHV, IHHNV, LSNV. Chỉ những cá thể sạch (âm tính) với tất cả các loại virus kể trên mới được sử dụng. Vật liệu ban đầu (G 0 ) được hình thành bằng cách phối ghép hỗn hợp giữa bốn dòng tôm bố mẹ. Kết quả đã tạo ra 69 gia đình từ 16 ghép phối. Vật liệu này được nuôi tại Trung tâm nghiên cứu trong hệ thống bể xi măng tuần hoàn đáy cát và nuôi thử nghiệm trong các ao tại miền Trung (Nha Trang), miền Tây Nam Bộ (Bạc Liêu) và miền Đông Nam Bộ (Bà Rịa). Kết quả đánh giá dòng thông qua tăng trưởng tại Trung tâm nghiên cứu cho thấy có sự hiện diện của ưu thế lai. Các ghép phối có sự tham gia của dòng tôm gia hóa đều cho kết quả tăng trưởng tốt. Tương tác kiểu gen – môi trường (G x E) cũng được tìm thấy giữa bốn địa điểm nuôi khác nhau và là tương quan thuận, ở mức độ nhẹ (rg = 0,29 – 0,85). Tôm bố mẹ hậu bị hiện đạt trọng lượng trung bình khoảng 80 g và đang được nuôi theo chế độ nuôi vỗ thành thục trong hệ thống bể xi măng đáy cát có hỗ trợ hệ thống tuần hoàn nước. Các bể nuôi tôm bố mẹ đều được bố trí hệ thống injector bổ sung khí đáy và tăng tuần hoàn nước trong bể nuôi. Chế độ chiếu sáng nhân tạo bao gồm 14 giờ chiếu sáng (ban ngày) và 10 giờ hoàn toàn tối (ban đêm). Dự kiến nguồn vật liệu này sẽ được sử dụng để tái tạo quần đàn F1 cho chọn giống vào cuối năm 2014. Dự kiến từ năm 2015 trở đi đề tài có thể từng bước cung cấp tôm bố mẹ đã qua chọn lọc cho các trại sản xuất giống để sản xuất ra số lượng lớn tôm giống chất lượng cao, sạch bệnh. Mặc dù đề tài đã cơ bản đã giải quyết được những vấn đề chính trong quy trình nuôi gia hóa, khép kín vòng đời tôm sú. Tuy nhiên, những khó khăn, tồn tại cũng còn đáng kể. Hiện tượng tôm từ giai đoạn 30 g trở đi chết rải rác nhưng chưa rõ nguyên nhân chính chứng tỏ quy trình hiện nay vẫn cần được cải tiến. Những hiểu biết liên quan đến dinh dưỡng cho tôm sú bố mẹ, hệ thống công trình nuôi cho từng giai đoạn phát triển và các vấn đề liên quan đến an toàn sinh học đòi hỏi cần có nhiều nghiên cứu chuyên sâu. Đây vẫn sẽ là những thách thức không nhỏ của đề tài, của Viện trong thời gian sắp tới trước khi Viện có thể hoàn toàn làm chủ công nghệ sản xuất tôm sú bố mẹ cung cấp cho người nuôi tôm trong cả nước. 1 Trung tâm Quốc gia Giống Hải sản Nam bộ - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. * Email: dinhhungria2@gmail.com 171TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Thông tin khoa học PHÁT HIỆN GEN GÂY ĐỘC CỦA VI KHUẨN Aeromonas hydrophila GÂY BỆNH XUẤT HUYẾT TRÊN CÁ TRA Nguyễn Thị Hiền1 Bệnh xuất huyết hiện nay là một trong những bệnh vi khuẩn nguy hiểm cho cá tra nuôi nói riêng và các loài nuôi nước ngọt khác nói chung. Tác nhân gây bệnh xuất huyết là vi khuẩn Aeromonas hydrophila, một trong các loài thuộc nhóm di động và ưa nhiệt độ trung bình (mesophilic) của giống Aeromonas. Bệnh xuất hiện hàng năm, khi thời tiết bất lợi làm cho cá yếu và phù hợp với điều kiện phát triển của vi khuẩn, bệnh thường gặp vào mùa mưa và hiếm gặp vào mùa khô. Các triệu chứng thường gặp của bệnh xuất huyết trên cá tra do A. hydrophila gồm: cá bơi lờ đờ; xuất huyết các gốc vây, vùng quanh miệng, xoang miệng, vùng da bụng và hậu môn; mắt mờ đục, lồi mắt; xuất huyết phần da mặt trong bụng, xuất huyết ruột, xuất huyết gan, trướng bụng. Trước đây, A. hydrophila được xem là tác nhân cơ hội và có độc lực thấp. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu di truyền học các chủng Aeromonas hydrophila gây bệnh trên cá tra” (năm 2012-2014), chúng tôi nhận thấy rằng ngoài những chủng A. hydrophila độc lực thấp (LD 50 , liều gây chết 50% cá thí nghiệm > 106 vi khuẩn/cá) còn có những chủng có độc lực trung bình và rất cao, một số chủng có LD 50 chỉ khoảng 101 vi khuẩn/cá. Bằng việc kết hợp giữa nghiên cứu thực nghiệm và áp dụng phương pháp sinh học phân tử, đề tài rút ra được kết quả quan trọng là mối liên hệ giữa độc lực và di truyền của vi khuẩn A. hydrophila. Độc lực của vi khuẩn được xác định thông qua xác định LD 50 . Di truyền của A. hydrophila được xác định bằng cách xác định sự hiện diện của các gen gây độc trên A. hydrophila từ những mẫu phân lập tại các tỉnh ĐBSCL. Ở đây, chúng tôi xin trình bày tóm tắt kết quả phát hiện các gen gây độc trên A. hydrophila phân lập từ cá tra nuôi ở ĐBSCL. Trong thời gian ba năm, 2012-2014, chúng tôi đã thu được 1.111 mẫu gồm mẫu cá bệnh, mẫu cá khỏe và mẫu nước ao nuôi từ sáu tỉnh gồm Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Cần Thơ và Tiền Giang trong các tháng cao điểm mùa mưa (tháng 6,7,8,9) và các tháng mùa khô (tháng 11 và tháng 1). Qua nuôi cấy phân lập và định danh vi khuẩn bằng kiểm tra sinh hóa cũng như phương pháp PCR, chúng tôi xác định được 269 mẫu là A. hydrophila. Các mẫu này sau đó được tiến hành PCR để xác định sự hiện diện của các gen gây độc gồm gen AerA (mã hóa Aerolysin, chất gây dung giải tế bào), ahh1 (mã hóa hemolysin, gây tan huyết), alt (cytotonic enterotoxin, không bền với nhiệt), ahpA (mã hóa serine protease bền với nhiệt), lip (mã hóa lipase), ast (cytotonic enterotoxin, bền với nhiệt) và gen ahsA (mã hóa S-layer, lớp tinh thể bề mặt, ngoài cùng của vi khuẩn). Kết quả PCR cho thấy các mẫu vi khuẩn A. hydrophila phân lập trên cá tra nuôi ở ĐBSCL chỉ có 6 trên tổng số 7 gen độc khảo sát. Không có mẫu A. hydrophila nào mang gen ahsA, là gen mã hóa lớp tinh thể bề mặt của vi khuẩn. Sáu gen còn lại đều hiện diện trên các mẫu phân lập từ 3 nguồn khác nhau (Đồ thị 1). Ngoại trừ gen ast, các gen AerA, ahh1, alt, ahpA và lip hiện diện với tỉ lệ cao (54-95%) và hiện diện trên mẫu phân lập từ cá bệnh cao hơn so với hai nguồn mẫu còn lại. 1 Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Môi trường và Phòng ngừa Dịch bệnh Thủy sản Khu vực Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. * Email: nguyenhien05@gmail.com 172 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Đồ thị 1. Tần xuất hiện diện của các gen gây độc trên A. hydrophila phân lập từ mẫu cá tra bệnh xuất huyết (Bệnh), mẫu cá tra bình thường (Khỏe) và mẫu nước ao nuôi (Nước) Đồ thị 2. Tần xuất hiện diện của các gen gây độc trên A. hydrophila phân lập từ cá tra nuôi ở các tỉnh ĐBSCL Gen ast, mã hóa nội độc tố bền với nhiệt của A. hydrophila không hiện diện trên các mẫu phân lập trên cá tra giống tại Tiền Giang và hiện diện với tỉ lệ thấp nhất so với các gen khác ở các tỉnh còn lại (Đồ thị 2). Năm gen AerA, ahh1, alt, ahpA và lip hiện diện khá đồng đều, với tỉ lệ cao nhất ở hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long, tiếp theo là An Giang, Bến Tre và Cần Thơ. Kết quả trên cho thấy vi khuẩn A. hydrophila rất đa dạng về di truyền. Các chủng khác nhau có thể được phân lập trên cá tra từ các nguồn khác nhau, gồm cá tra bệnh, cá tra khỏe và mẫu nước ao nuôi. Ngoài ra, vùng địa lý và thời điểm phân lập cũng cho phép thu được các chủng có kiểu gen khác nhau. Vào khoảng mùa mưa (tháng 6, tháng 7), cá tra giống thường chỉ bị bệnh xuất huyết và cấy phân lập vi khuẩn chỉ thuần một loại A. hydrophila, kiểu gen độc lực cao (mang 5-6 gen gây độc khảo sát). Sang tháng 8, tháng 9, ngoài bệnh xuất huyết còn gặp thêm bệnh gan thận mủ, trắng mang trắng gan. Lúc này, vi khuẩn A. hydrophila, ngoài chủng độc lực mạnh còn có thêm các chủng có độc lực yếu hoặc trung bình, các vi khuẩn này có thể là vi khuẩn cơ hội, xuất hiện cùng hoặc sau khi cá tra bị bệnh gan thận mủ. 173TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hoạt động khoa học HỢP TÁC KHOA HỌC VỚI TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HẢI DƯƠNG ĐÀI LOAN Nguyễn Văn Trọng1 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. Trong chương trình hợp tác KHCN với các cơ quan nghiên cứu và Trường Đại học nước ngoài, vào ngày 16 tháng 6 năm 2014 tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 2, TS Nguyễn Văn Hảo - Viện trưởng đã ký kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác KHCN với GS TS. Ching Fong Chang, Hiệu trưởng - Trường Đại học Quốc gia Hải dương Đài Loan (NTOU). NTOU được thành lập từ năm 1953 với định hướng mục tiêu tập trung nghiên cứu và đào tạo trong các lĩnh vực liên quan đến hải dương. Hiện NTOU có 6 trường trực thuộc (Colleges) gồm: Khoa học và Quản lý biển; Khoa học sự sống(có Khoa Nuôi trồng thuỷ sản); Khoa học hải dương và Tài nguyên biển; Công nghệ; Công nghệ điện và Khoa học Máy tính; và Khoa học xã hội và nhân văn. Các trường này có tất cả 28 Khoa và học viện phục vụ cho công tác đào tạo sinh viên Đại học và Sau đại học. Trong biên bản ghi nhớ ký kết giữa Viện NCNTTSII và NTOU, hai bên đã thống nhất nội dung hợp tác KHCN bao gồm việc trao đổi chuyên gia trong công tác giảng dạy, tư vấn các lĩnh vực liên quan đến chuyên ngành thuỷ sản; xây dựng các chương trình hợp tác nghiên cứu, cử cán bộ sang cơ quan đối tác để học hỏi, trao đổi nghiên cứu trong các lĩnh vực công nghệ cao; tham gia các khoá tập huấn ngắn hạn hoặc các chương trình đào tạo Sau đại học. Ngoài ra việc trao đổi thông tin, tài liệu thư viện giữa hai đơn vị cũng là một nội dung được hai bên quan tâm trong biên bản ghi nhớ. Một trong những thành quả đầu tiên của sự hợp tác KHCN giữa Viện và NTOU là anh Lê Quốc Bình, cán bộ nghiên cứu của Phân viện Nghiên cứu Thuỷ sản Minh Hải, đã nhận được học bỗng cho chương trình đào tạo Thạc sĩ tại NTOU niên khoá năm 2014 – 2015. 174 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 1 Phòng Sinh học Thực nghiệm, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. Email: vominhsonria2@yahoo.com Hoạt động khoa học MỞ RỘNG NGHỀ NUÔI ARTEMIA TRONG RUỘNG MUỐI TẠI VIỆT NAM Võ Minh Sơn1 Artemia được nhập vào Việt Nam và bắt đầu nuôi ở Nha Trang, Cam Ranh, Phan Thiết, Vĩnh Châu vào những năm 1980. Cho đến nay, nghề nuôi Artemia và sản xuất trứng bào xác chủ yếu tập trung ở Vĩnh Châu, Bạc Liêu và trở thành hai vùng trọng điểm cung cấp trứng Artemia chất lượng cao cho thị trường trong và ngoài nước với sản lượng ước tính hàng năm khoảng 30-50 tấn bào xác nguyên liệu. Hiện nay, song song với quy trình nuôi trứng bào xác, Trường Đại học Cần Thơ đã tiến hành nuôi thử nghiệm sản xuất Artemia sinh khối trong ruộng muối Vĩnh Châu – Bạc Liêu, năng suất Artemia sinh khối (đông lạnh) dao động từ 2-4 tấn/ha/vụ. Tuy nhiên, nuôi Artemia sinh khối chưa được áp dụng đại trà do phương pháp quản lý ao và thu hoạch chưa ổn định, chưa có phương pháp chế biến và sử dụng phù hợp từng đối tượng nuôi. Hiện nay, nhu cầu trứng bào xác Artemia và sinh khối trên thị trường trong nước và ngoài nước rất lớn nên việc nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ nuôi và mở rộng địa bàn nuôi Artemia là rất cần thiết. Thu sinh khối Artemia 175TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Tại cuộc hội thảo Quốc tế về Artemia tổ chức vào tháng 3/2012 tại Trường Đại học Cần Thơ cho rằng Việt Nam có tiềm năng rất lớn sản xuất trứng bào xác và sinh khối Artemia trong ruộng muối ở các tỉnh Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ (Kiên Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Vũng Tàu) và Miền Trung (Bình Thuận, Khánh Hòa). Được sự hỗ trợ của Trung tâm Nghiên cứu Artemia của Trường Đại học Ghent (Bỉ), Trường Đại học Cần Thơ và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 triển khai dự án “Mở rộng mô hình nuôi Artemia trong ruộng muối tại Việt Nam” nhằm mục tiêu tăng sản lượng trứng bào xác và sinh khối Artemia ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long do Đại học Cần Thơ phụ trách và khu vực Miền Trung do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 phụ trách. Dự án thực hiện trong 3 năm: Năm 1: Chọn địa điểm nuôi Artemia ở miền Trung và miền Nam; Chọn và chuẩn bị thử nghiệm nuôi Artemia với quy mô pilot tại vùng nuôi mới ở miền Trung và miền Nam. Năm 2: Thử nghiệm quy trình nuôi Artemia quy mô pilot tại vùng nuôi mới; Tập huấn cho các nông hộ nuôi Artemia về kỹ thuật và quy trình nuôi phù hợp với từng vùng miền. Năm 3: Triển khai nuôi Artemia quy mô thâm canh; Chuyển giao công nghệ, tập huấn cho nông dân về kỹ thuật nuôi thâm canh Artemia trong ruộng muối. Sinh khối Artemia Ruộng muối nuôi Artemia Trứng bào xác Artemia
File đính kèm:
- tap_chi_nghe_ca_song_cuu_long_so_042014.pdf