Sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) ở đồng bằng sông Cửu Long
TÓM TẮT
Diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chỉ chiếm 12,24% diện tích cả nước, nhưng được
đánh giá là vựa cá lớn nhất của cả nước. Sinh vật ngoại lai được đánh giá là một trong những nguyên
nhân tác động mạnh nhất đến tính đa dạng sinh học (đứng thứ hai sau yếu tố mất môi trường sống)
(IUCN 2004). Nghiên cứu về sự phân bố và mức độ phong phú của cá Lau Kiếng (Pterygoplichthys
disjunctivus) ở ĐBSCL được thực hiện từ 09/2012 đến tháng 06/2013 với các loại hình thủy vực
được khảo sát là sông, kênh và ao tự nhiên tại 4 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Hậu Giang.
Kết quả chỉ ra rằng cá Lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) là loài cá có nguồn gốc từ Nam
Mỹ và được di nhập vào Việt Nam từ những năm 1990, do thoát ra ngoài từ việc nuôi cá cảnh, kích
thước lớn nhất ghi nhận được ở ĐBSCL là 1,2kg. Phân bố của cá Lau kiếng rất rộng, chúng xuất
hiện ở tất cả các loại hình thủy vực nước ngọt bao gồm sông (32%), kênh (20%) và ao tự nhiên
(48%). Sự phong phú của cá Lau kiếng ở mức độ kém phong phú (mức 3) và đang tiến gần đến mức
độ phong phú (mức 2). Đây cũng là loài cá ngoại lai xâm lấn, chúng có khả năng sinh trưởng và
sinh sản rất nhanh, và có một số đặc tính sinh học vượt trội so với các loài cá bản địa như chịu được
khô hạn vẫn sống sót sau 10 ngày, sinh sản nhiều, tỉ lệ sống của cá con 70% (Oanh, 2012). Điều này
sẽ làm cho một số loài cá bản địa mất dần và làm cho mất cân bằng hệ sinh thái ở một số thủy vực
ở ĐBSCL (đặc biệt ở những đống chà ven sông). Cần có những biện pháp hữu hiệu hay biện pháp
giảm nhẹ tác động của loài cá này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) ở đồng bằng sông Cửu Long
iểm thu mẫu. 2.4. Phương pháp xử lý số liệu Phần mềm MS Excel, MS Word được sử dụng để lưu trữ, phân tích dữ liệu và viết báo cáo tổng hợp. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Nguồn gốc xuất hiện cá Lau Kiếng Cá Lau kiếng hiện nay rất phổ biến và hầu như có mặt khắp vùng ĐBSCL. Cá Lau kiếng bắt đầu xuất hiện khá nhiều ở các thuỷ vực tự nhiên vùng ĐBSCL từ những năm 1990 cho đến nay. Nguồn gốc xuất hiện của loài cá này được cho là từ việc nuôi cá cảnh của người dân. Kết quả khảo sát cho thấy cá Lau kiếng xuất hiện ngoài từ nhiên ở ĐBSCL vào từ năm 2001 và sự phổ biến của cá này được biết nhiều nhất tập trung vào năm 2005. Vị trí cá Lau kiếng trong Hệ thống phân loại cá: Bộ: Siluriformes Họ: Loricariidae Họ phụ: Hypostominae Giống: Pterygoplichthys Loài: Pterygoplichthys disjunctivus (Weber, 1991) Tên tiếng Việt: Cá Lau kiếng hay cá cọ bể Tên tiếng Anh: Vermiculated sailfin catfish (Nguồn: Mô tả định loại cá Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, 2013) Hình 2. Cá Lau kiếng Pterygoplichthys disjunctivus (Weber, 1991) Đặc điểm chính để nhận dạng loài cá này là: có 1 vi mỡ; vi lưng có 10 – 14 tia vi; vi hậu môn: 3 – 5 tia vi; vi ngực: 6 – 7 tia vi; vi bụng 5 – 6 tia vi (Fishbase, 2013). Ngoài ra, cá còn có những đặc điểm nhận dạng khác: có các vẩy sừng trên thân, có vây mỡ, miệng dưới, môi có gai thịt, vi lưng có 12 - 14 tia, có nhiều sọc hoa văn ở mặt bụng (Định và et al., 2013). 155TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Đặc điểm sinh học của cá Lau kiếng: Đây là loài đẻ trứng trong hang và cá đực có nhiệm vụ canh giữ tổ trứng. Chỉ số đa dạng phát sinh loài cao (PD 50 = 0,50); Mức dinh dưỡng = 2,0; khả năng thích ứng cao, quần đàn có thể tăng gấp đôi trong thời gian 1,4 – 4,4 năm; khả năng bị tác động thấp (30/100) (Fishbase, 2013). Cá Lau kiếng sinh trưởng nhanh trong 2 năm đầu: chiều dài đạt hơn 35cm sau 2 tuổi và kích thước lớn nhất ghi nhận được là 70cm. Cá thường sinh sản ở kích thước 25cm (Mendoza et al., 2009). Sức sinh sản cũng cao với 472 – 1.283 – 3.000 trứng/cá thể, đặc biệt cá có kích thước càng lớn thì sức sinh sản càng cao (Devick 1988, 1989; Mendoza et al., 2009). Mùa vụ sinh sản tập trung trong mùa hè, nhưng cũng sinh sản quanh năm (Mendoza et al., 2009). Cá Lau kiếng thích nghi tốt trong điều kiện môi trường khắc nghiệt. Cá có thể phân bố trong môi trường có nồng độ oxy hoà tan trong nước rất thấp (Fishbase, 2013). Thực tế cho thấy cá Lau kiếng có thể sống trong môi trường ẩm thấp, ngay cả khi mực nước thấp hơn miệng hang (Burgess, 1989; Sandford và Crow, 1991). Những đặc điểm này giúp cá Lau kiếng có thể lấn át và vượt trội so với những loài thuỷ sản khác trong môi trường tự nhiên và nhân tạo. 3.2. Phạm vi phân bố của cá Lau kiếng Kết quả chỉ ra rằng cá Lau kiếng xuất hiện ở tất cả các loại hình thủy vực được khảo sát (Hình 3). Số lượng cá Lau kiếng đánh bắt được nhiều nhất ở loại hình ao tự nhiên (48%), thấp nhất là ở kênh (20%), còn lại 32% tổng số lượng cá bắt được là ở sông. Trên địa bàn tỉnh An Giang xuất hiện cá Lau kiếng với mật độ dày ở hầu hết các sông, kênh, rạch, ao, hồ. Cá Lau kiếng chiếm tỷ lệ cao trong sản phẩm thu hoạch của ngư dân qua các nghề khai thác truyền thống như: Chất chà, cất vó, chài, kéo lưới (Báo An Giang, 18/12/2013). Hình 3. Tỉ lệ số lượng cá thể cá Lau kiếng bắt được ở các loại hình thủy vực 3.3. Mức độ phong phú của cá Lau kiếng Nhìn chung, mức độ phong phú của cá Lau kiếng ở các loại hình thủy vực ở mức kém phong phú (mức 3). Hình 4 cho thấy rằng cá Lau kiếng ở mức độ kém phong phú nhất ở loại hình thủy vực ao tự nhiên. Tuy nhiên, cũng nên chú ý ở hai loại hình thủy vực sông và kênh, sự phong phú của cá Lau kiếng đang gần tiến tới mức độ phong phú. Hình 4. Phần trăm mức độ phong phú của cá Lau kiếng ở các thủy vực Kết quả phân tích sản lượng khai thác trên một đơn vị diện tích (CPUA, g/m2) của cá Lau kiếng ở các loại hình thủy vực cho thấy CPUA rất thấp, thấp nhất ở ao tự nhiên CPUA = 0,0007 g/m2 , còn ở sông và kênh tương đương nhau, lần lượt là 0,31 g/m2 và 0,34 g/m2 (Hình 5) 156 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hình 5. CPUA ở các thủy vực Hình 6. CPUE ở các thủy vực Tương tự, sản lượng khai thác cá Lau kiếng trong 1 giờ kéo lưới ở ngư cụ cào (CPUE, g/giờ/ cào) cũng rất thấp, ở sông CPUE = 3,26 g/giờ/ cào, tuy nhiên ở kênh CPUE cao hơn với 3,57 g/ giờ/cào. (Hình 6) So sánh sản lượng của cá Lau kiếng so với sản lượng các loài cá bản địa cho thấy tỉ lệ này rất thấp chiếm khoảng 3%. (Hình 7) Hình 7. Tỉ lệ trọng lượng cá Lau kiếng so với các loài cá bản địa Bên cạnh đó, số lượng cá thể của cá Lau kiếng so với số lượng cá thể các loài cá bản địa có chiếm tỉ lệ cực kỳ thấp chỉ 1%. (Hình 8) Hình 8. Tỉ lệ cá thể cá Lau kiếng so với các loài cá bản địa 3.4. Ảnh hưởng của cá Lau kiếng đến nguồn lợi thủy sản tự nhiên Trong rất nhiều trường hợp tác động của các loài cá ngoại lai khó đánh giá, khó định lượng hay dự báo tác động đến nguồn lợi thủy sản và môi trường tự nhiên (Moyle và Light 1996). Từ những phân tích và đánh giá về sản lượng khai thác, các đặc điểm sinh học và các nhận định về các tác động của cá Lau kiếng đến nguồn lợi thủy sản địa phương thông qua khảo sát ngư dân, chúng tôi nhận định rằng: quần đàn cá Lau kiếng phát triển nhanh, có thể phát tán và sinh trưởng ở tất cả các thủy vực, và sẽ đe dọa đến tính bền vững nguồn lợi thủy sản và tính đa dạng sinh học ở các thủy vực tự nhiên. Thực tế khảo sát tại các bến cá và chợ địa phương cho thấy, cá Lau kiếng được đánh bắt rất nhiều (Hình 9). Hình 9. Thu mua cá Lau kiếng từ các ngư dân khai thác ở Thốt Nốt 157TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Cá Lau kiếng có tính cạnh tranh cao về thức ăn và nơi cư trú đến các loài cá khác và sự xuất hiện của loài cá này làm giảm đi sự xuất hiện của những loài cá khác, đặc biệt là ở những đống chà ven sông (11% ngư dân được phỏng vấn). Do đó, sự xuất hiện của cá Lau kiếng sẽ đe dọa đến sự tồn tại của các loài cá khác. Sự xuất hiện của cá Lau kiếng có một số lợi ích tức thời về mặt kinh tế xã hội của nông hộ. Hiện loài cá này có giá ở thị trường từ 10 – 20 ngàn đồng/kg và được người tiêu thụ ưa chuộng do thịt ngon, có thể chế biến các món ăn như làm chả cá, nướng, luộc và hầm với sả. IV. THẢO LUẬN Cá lau kiếng phân bố chủ yếu ở vùng nước ngọt, nhưng chúng cũng bắt gặp ở cả vùng nước lợ, gần cửa sông ven biển (Vũ Vi An và Đoàn Văn Tiến, 2012). Cũng trong nghiên cứu này cho thấy sản lượng khai thác cá lau kiếng chiếm 2,68% tổng sản lượng khai thác đối với các loại lưới bén và lưới ba màng. Đối với một số loại ngư cụ khác thì sản lượng cao hơn nhiều, ví dụ như dỡ chà: sản lượng cá lau kiếng trung bình chiếm 23,5% tổng sản lượng khai thác (Phạm Văn Khánh và Thi Thanh Vinh, 2005). Cá lau kiếng còn khá phổ biến trong các ao nuôi cá vùng ĐBSCL. Ví dụ như ao nuôi cá tra (1.200m2) ở An Giang: khi thu hoạch đã bắt được khoảng 400kg cá Lau kiếng trong ao. Khoảng 90% số ao khi nuôi cá khi thu hoạch đều có sự xuất hiện của cá Lau kiếng (Đức Vịnh, 2012). Cá Lau kiếng sinh sản rất nhanh, lượng trứng rất nhiều 250.000 – 300.000 trứng (Oanh, 2012) và chúng có khả năng sống sót sau 10 ngày trong điều kiện khô cạn không có nước ở các thủy vực nông. Đây là loài cá thích nghi cao ở vùng nhiệt đới như ở ĐBSCL. Quần đàn cá Lau kiếng đang phân bố rộng ở ĐBSCL sẽ tiếp tục tăng nhanh về số lượng, đến một lúc nào đó chúng lấn át các loài cá bản địa khác thông qua cạnh tranh về môi trường sống và nơi cư trú, có thể trong tương lai gần, sản lượng khai thác thủy sản ở ĐBSCL chủ yếu là cá Lau kiếng, ngược lại một số loài cá địa phương đang phổ biến hiện nay như cá Linh, Rô, Lăng và cá Bống tượng sẽ có thể giảm nghiêm trọng. Do đó, người dân không nên phát tán cá Lau kiếng ra sông, rạch; khi đánh bắt được loại cá này nên tiêu hủy hoặc tiêu thụ làm thức ăn. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Cá Lau kiếng (Pterygoplichthys disjunctivus) là loài cá có nguồn gốc từ Nam Mỹ và được di nhập vào Việt Nam từ những năm 1990, do thoát ra ngoài từ việc nuôi cá cảnh. Đây là loài cá có kích thước lớn, kích thước lớn nhất nghi nhận được ở ĐBSCL là 1,2kg, người dân cho rằng kích thước cá Lau kiếng còn lớn hơn nhiều, tuy nhiên thông tin này chưa được kiểm chứng. Phân bố của cá Lau kiếng rất rộng, chúng xuất hiện ở tất cả các loại hình thủy vực nước ngọt. Sự phong phú của cá Lau kiếng ở mức độ kém phong phú (mức 3) và đang tiến gần đến mức độ phong phú (mức 2). Đây là loài cá ngoại lai xâm lấn, quần đàn cá phát triển nhanh, có thể phát tán và sinh trưởng ở tất cả các thủy vực nước ngọt, và sẽ đe dọa đến tính bền vững nguồn lợi thủy sản và tính đa dạng sinh học ở các thủy vực tự nhiên. Điều này sẽ làm cho một số loài cá bản địa mất dần và làm cho mất cân bằng hệ sinh thái ở một số thủy vực ở ĐBSCL. 5.2. Đề xuất Đây là loài cá ngoại lai xâm lấn có tác động mạnh mẽ đến nguồn lợi thủy sản địa phương và tính đa dạng sinh học, do đó không nên phân tán loài cá này đến những thủy vực khác và cần có những biện pháp hữu hiệu hay biện pháp giảm nhẹ tác động của loài cá này. Tiếp tục hợp tác với các cơ quan nghiên cứu hay trường đại học để theo dõi và nghiên cứu tác động của loài cá ngoại lai xâm lấn này 158 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 nhằm tư vấn cho chính quyền địa phương có biện pháp giảm nhẹ tác động kịp thời. Ngoài ra để hạn chế sự phát tán các loài cá ngoại lai nên tăng cường quản lý và xây dựng các văn bản pháp lý các loài cá nhập nội, tăng cường khung luật pháp cũng như hợp tác quốc tế trong việc phòng ngừa việc du nhập, kiểm soát và tiêu diệt các loài ngoại lai xâm hại. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Đức Vịnh, 2012. Tràn ngập cá Lau Kiếng. Báo tuổi trẻ Online ngày 29/12/2003. Mai Đình Yên, Vũ Trung Tạng, Bùi Lai, Trần Mai Thiên, 1979. Ngư loại học. NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp. Hà Nội. 235 trang. Phạm Văn Khánh, Thi Thanh Vinh, 2005. Đánh giá ảnh hưởng của loài tỳ bà hay cá Lau kiếng (Hypostomus plecostomus) xâm nhập lên nghề nuôi cá truyền thống và đa dạng sinh học tại Châu thổ sông Mekong, Việt Nam. Báo cáo kết quả khảo nghiệm. 11 trang. Trần Đắc Định, K. Shibukawa, P.T. Nguyen, H.P. Ha, L.X. Sinh, H.V. mai and Utsugi, 2013. Mô tả định lọai cá Đồng bằng sông Cửu long, Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Cần thơ. 174 trang. Huỳnh Thị Hoàng Oanh, 2012. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cá Lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus). Luận văn tốt nghiệp Cao học. 79 trang. /newsdetails / 1247ECEF DDCC / Xuat_hien_nhieu_ca_lau_kieng_cuoi_ mua_lu.aspx (18/12/2013) Tài liệu tiếng Anh IUCN, 2004. A global species assessment. 2004 IUCN Red list of threatened species. Fishbase, 2013. Fishbase ( search.php). Cập nhật ngày 04/06/2013. Devick, W. S., 1989. Disturbances and fluctuations in the Wahiawa Reservoir ecosystem. Project F-14-R-13. Job 4. Study I. Division of Aquatic Re sources. Hawaii Department of Land and Natural Resources. 189-213. Mendoza, R.E., Cudmore, B., Orr, R., Balderas, S.C., Courtenay, W.R., Osorio, P.K., Mandrak, N., Torres, P.A., Damian, M.A., Gallardo, C.E., Sanguines, A.G., Greene, G., Lee, D., Orbe- Mendoza, A., Martinez, C.R., and Arana, O.S, 2009. Trinational Risk Assessment Guidelines for Aquatic Alien Invasive Species. Commission for Environmental Cooperation. 393. rue St-Jacques Ouest. Bureau 200. Montréal (Québec). Canada. ISBN 978-2-923358-48-1. Burgess, W. E., 1989. An atlas of freshwater and marine catfishes – A preliminary survey of the Siluriformes. TFH Publications. Neptune City. NJ. Sandford, G., and Crow, R., 1991. The manual of tank busters. Tetra Press. Morris Plains. NJ. Moyle, P.B., Light, T., 1996. Biological invasions of freshwater: emperical rules and assembly theory. Biological Conservation, vol 78, 149-161. Hubilla, M., Kis, F., & Primavera, J., 2007. Janitor Fish Pterygoplichthys disjunctivus in the Agusan Marsh: a Threat to Freshwater Biodiversity. Journal of Environmental Science and Management. 10(1), 10-23. Nico, L., 1999. Pterygoplichthys disjunctivus. (Weber 1991). Nonindigenous aquatic species fact sheet 766.” United States Geological Survey. A Key to the Genera of Loricariidae. edu/academic/science_math/cosam/collections/ fish/lor_key/key.html. Update 04/06/2013. Key to the Species of Pterygoplichthys by J.W. Armbruster and L.M. Page (partially modified from Weber, 1992) . academic/science_math/res_area/loricariid/fish_ key/pterygo/pterygo.html. Update 04/06/2013. 159TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 DISTRIBUTION AND ABUNDANCE OF VERMICULATED SAILFIN CATFISH (Pterygoplichthys disjunctivus) IN THE MEKONG DELTA, VIETNAM Nguyen Nguyen Du1 ABSTRACT Mekong Delta is about 12.24% area of Vietnam but it was considered as the biggest fish house of whole country. Invasive species is one of the causes of affecting to biodiversity (the second after loss live habitat) (IUCN, 2004). Study of distributions and abundance of Vermiculated sail fin cat- fish (Pterygoplichthys disjunctivus) in the Mekong Delta was carried out from September 2012 to June 2013 included river, canal and wild pond at An Giang, Dong Thap, Can Tho and Hau Giang provinces. Result showed that (Pterygoplichthys disjunctivus) is original from South America was imported to Vietnam in 1990s. They are exited out wild habitat from aquarium. The biggest weight was 1.2kg recorded in Mekong Delta. Distribution of mouth sucker was very broad, they presented in almost of fresh-water body. Abundance of mouth sucker was at low level and this advances to abundance level. This is a invasive species, they is grow and spawn rapidly, their bio-characteristics are higher than native species such as high sustained ability with out of water conditions in 10 days, much breeding, alive rate of larvae with 70% (Oanh, 2012). This causes that native fishes will disap- pear in the future and it will be unbalance of eco-systems in fresh-water bodies Mekong Delta. This suggests that useful solutions will propound and mitigate impact of this fish. Keywords: mouth sucker, distribution, abundance, water body, evaluation Người phản biện: TS. Nguyễn Minh Niên Ngày nhận bài: 10/02/2014 Ngày thông qua phản biện: 28/02/2014 Ngày duyệt đăng: 30/3/2014 1 Inland Fisheries Resources and Capture Division, Research Institure for Aquaculture No2 Email: didzu72@yahoo.com
File đính kèm:
- su_phan_bo_va_muc_do_phong_phu_cua_ca_lau_kieng_pterygoplich.pdf