Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm

TÓM TẮT

Mô sẹo (callus) là nguyên liệu quan trọng để nhân nhanh số lượng cây mầm trong công nghệ nuôi

cấy mô rong biển. Bài viết này trình bày kết quả bước đầu về nghiên cứu tạo mô sẹo rong sụn trong

phòng thí nghiệm sử dụng môi trường nuôi cấy PES ở độ mặn 28‰, khử trùng bằng hỗn hợp

kháng sinh và cảm ứng tạo mô sẹo trong điều kiện nhiệt độ 250C (±1°C), ánh sáng huỳnh quang

5 μmol photons m-2.s-1, chu kỳ chiếu sáng là 12: 12. Kết quả cho thấy với 100% mẫu cấy không bị

nhiễm khuẩn và nấm, tỷ lệ hình thành mô sẹo có thể đạt tới 45,16% và mô sẹo hình thành sớm

nhất được quan sát sau 5 ngày nuôi cấy. Kết quả bước đầu xác định việc hình thành mô sẹo bị ảnh

hưởng bởi các yếu tố kích thước mẫu cấy, nồng độ agar làm môi trường nhưng không ảnh hưởng

vào việc bổ sung chất điều tiết sinh trưởng.

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 1

Trang 1

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 2

Trang 2

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 3

Trang 3

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 4

Trang 4

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 5

Trang 5

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 6

Trang 6

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 7

Trang 7

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 8

Trang 8

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 4660
Bạn đang xem tài liệu "Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm

Nuôi cấy mô rong sụn (Kappaphycus alvarezii, Doty): Kết quả bước đầu về tạo mô sẹo trong phòng thí nghiệm
i sự 
phát triển mô sẹo hàng ngày dưới kính giải 
phẫu với độ phóng đại tối đa 4,5 lần. Các đĩa 
petri đựng mẫu cấy được đặt ngẫu nhiên trong 
cùng một vị trí thí nghiệm để đảm bảo đồng 
2χ
VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2
TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015 21
Việc phát sinh mô sẹo ở rong sụn xảy ra 
khá nhanh và tăng dần theo thời gian. Kết quả 
quan sát cho thấy sau 5 ngày cấy mẫu, tỷ lệ 
tích =4,71>3,841 (α=0,05, df=1) chỉ ra sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ mô sẹo 
hình thành giữa hai loại đường kính mẫu cấy. 
A B
C D
Hình 3: Hình chụp mẫu cấy có mô sẹo dạng sợi (A), mô sẹo đặc (B), mẫu bị rỉ nước (C) và 
mẫu bị hoại tử (D)
Hình 2: Tỷ lệ mô sẹo hình 
thành sau thời gian cấy mẫu 
(n= 279)
2χ
Thời gian cảm ứng mô sẹo
VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2
22 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015
Việc bổ sung thêm chất điều tiết sinh 
trưởng BA không kích thích sự hình thành và 
phát triển của mô sẹo. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy lô đối chứng (không bổ sung BA) cho tỷ 
lệ hình thành mô sẹo đạt 55%, cao hơn so với 
lô bổ sung 0,5 mg/l BA (đạt 45%) và tương 
đương với lô bổ sung 1 mg/l BA (đạt 57%) 
(Hình 4C). Kết quả phân tích (α=0,05, df=1) 
cho thấy giá trị dao động từ 0,05 đến 1,00 
<3,84 chứng tỏ sự khác biệt về tỷ lệ mô sẹo 
giữa các lô thí nghiệm bổ sung chất kích thích 
sinh trưởng BA không có ý nghĩa thống kê.
hình thành mô sẹo dạng sợi đạt 14,17%, sau 
9 ngày tỷ lệ này tăng lên 22,22%, sau 11 ngày 
đạt 24,73% và sau 14 ngày là 45,16% (Hình 
2). Sau 14 ngày, không có mô sẹo được phát 
hiện thêm. Các mẫu cấy không hình thành mô 
sẹo sẽ có hiện tượng rỉ nước trên bề mặt vết 
cấy, mất màu tự nhiên và hoại tử hoàn toàn sau 
25-30 ngày (Hình 2).
Quan sát quá trình hình thành mô sẹo ghi 
nhận được có hai dạng mô sẹo xuất hiện là 
mô sẹo dạng sợi và mô sẹo đặc (Hình 3). Tuy 
nhiên, trong tổng số 126 mẫu mô sẹo chỉ có 1 
mẫu có dạng mô sẹo đặc, còn lại 125 mẫu là 
mô sẹo dạng sợi ( =122>>>3,841 (α=0,05, 
df=1)).
3.2.	Ảnh	hưởng	của	nồng	độ	agar	và	chất	
điều	tiết	sinh	trưởng
Kết quả nghiên cứu cũng phản ánh sự 
khác biệt về tỷ lệ mô sẹo hình thành giữa các 
nồng độ agar thí nghiệm. Nồng độ agar 1,5% 
cho tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt 60% cao nhất 
trong ba nồng độ thử nghiệm. Nồng độ agar 
2% cho tỷ lệ hình thành mô sẹo thấp nhất 
(20%) (Hình 4B). Ở nồng độ agar 0,8% và 1% 
cho tỷ lệ hình thành mô sẹo tương đương nhau 
(40%). Kết quả phân tích (α=0,05, df=1) chỉ 
ra sự sai khác có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ hình 
thành mô sẹo giữa nồng độ agar 1,5% với các 
nồng độ agar thử nghiệm (Bảng 1).
Lô thí nghiệm Đối chứng 
(không bổ sung)
Bổ sung 
0,5%BA
Bổ sung 
0,50%BA
0,58
Bổ sung 
1%BA
0,057 1,00
IV.	THẢO	LUẬN
Nuôi cấy mô rong sụn là lĩnh vực nghiên 
cứu trên đối tượng thực vật bậc thấp yêu cầu 
quy trình và kỹ thuật hoàn toàn khác so với 
thực vật bậc cao. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi đã tạo ra được mô sẹo trong phòng 
thí nghiệm mặc dù mô sẹo hình thành chưa 
phát triển mạnh, chưa có khả năng tái sinh 
thành cây mới. Với tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt 
tới 45-60% không cao bằng các nghiên cứu 
đã công bố trên thế giới ví dụ như Reddy và 
ctv., (2003) ghi nhận hơn 80% mẫu cấy hình 
thành mô sẹo, Yeong và ctv., (2014) ghi nhận 
tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt 68,57%. Nguyên 
nhân dẫn đến tỷ lệ hình thành mô sẹo thấp như 
nghiên cứu này có thể do hóa chất nghiên cứu 
sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc nên chất 
lượng và độ tinh khiết không cao bằng hóa 
chất nguồn gốc ở các nước tư bản phát triển. 
Nhận định này đã được chúng tôi kiểm chứng 
gần đây nhưng chưa công bố.
2χ
2χ
Nồng độ agar 2% 1,5% 1%
1,5% 12,00*
1% 2,94 3,38
0,8% 4,00* 2,40 0,09
Bảng 1: Kết quả phân tích giá trị đánh giá 
sai khác về tỷ lệ mô sẹo giữa các nồng độ agar 
thí nghiệm
* Khác biệt có ý nghĩa thống kê
2χ
2χ
2χ
Bảng 2: Kết quả phân tích đánh giá sai khác 
về tỷ lệ mô sẹo giữa các nồng độ BA thí nghiệm
2χ
VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2
TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015 23
tử. Ngược lại, nếu sử dụng hóa chất ở nồng 
độ thấp và thời gian ngắn hơn lại không hiệu 
quả với tỷ lệ nhiễm khuẩn cao. Như vậy, tỷ lệ 
100% mẫu không tạp nhiễm khuẩn, nấm phần 
nào phản ánh việc sử dụng quá liều kháng sinh 
của nghiên cứu dẫn đến tỷ lệ mẫu hình thành 
mô sẹo thấp. Ngoài ra, nghiên cứu xác định 
mẫu cấy có đường kính lớn hơn 2 mm cho 
Ở rong đỏ, mô sẹo phát sinh thường là 
mô sẹo dạng sợi. Mô sẹo đặc hiếm khi xuất 
hiện (Reddy và ctv., 2003). Điều này tương 
tự như kết quả ghi nhận được trong nghiên 
cứu này với một mẫu duy nhất trong tổng số 
hàng trăm mẫu mô sẹo quan sát được. Việc 
nghiên cứu phát sinh mô sẹo dạng sợi ở rong 
sụn đã được nhiều tác giả công bố trên thế giới 
(xem Dawes 1991; 1993; Kumar và ctv., 2007; 
Sulistiani và ctv., 2012). Tuy nhiên, với thời 
điểm phát sinh mô sẹo có thể xảy ra sau 5 ngày 
cấy mẫu ở trong nghiên cứu này đều sớm hơn 
kết quả đã ghi nhận ở các nghiên cứu khác. 
Trong nghiên cứu của Reddy và ctv., (2003); 
Hayashi và ctv., (2008) và Sulistiani và ctv., 
(2012), thời điểm xuất hiện dấu hiệu hình 
thành mô sẹo ở rong sụn là sau 10-14 ngày 
cấy mẫu. Tuy nhiên, nghiên cứu của Yeong và 
ctv., (2014) thời điểm phát sinh mô sẹo xuất 
hiện sau 6 ngày cấy mẫu khá tương đồng với 
kết quả nghiên cứu của chúng tôi cùng trên đối 
tượng rong sụn.
Tạo mẫu cấy vô trùng được coi là điều 
kiện quan trọng để phát sinh mô sẹo trong 
nuôi cấy mô rong biển (Polne-Fuller và ctv., 
1987; Tatewaki, 1989;). Việc xử lý vô trùng 
mẫu cấy trong hỗn hợp kháng sinh theo Reddy 
và ctv., (2003) thu được kết quả là 100% 
mẫu cấy không nhiễm nấm và khuẩn. Tỷ lệ 
này trong nghiên cứu của Sulistiani và ctv., 
(2012) đạt 64,5%, Reddy và ctv., (2003) đạt 
90 – 95%. Trên các đối tượng rong khác như 
Gracilaria corticata, Sargassum tenerrimum, 
Turbinaria conoides tỷ lệ vô trùng đạt 60%, 
Hypnea musciformis chỉ đạt 10% (Kumar và 
ctv., 2007).
Việc tạo được mẫu cấy vô trùng ở rong 
biển khó hơn so với thực vật bậc cao do rong 
biển không có lớp bảo vệ bề mặt, các hóa 
chất khử trùng rất dễ làm tổn thương các mô 
tế bào (Polne-Fuller, 1987; Baweja và ctv., 
2009). Thực tiễn thí nghiệm cho thấy, xử lý 
rong với hóa chất ở nồng độ cao trong thời 
gian dài sẽ gây ra hiện tượng mẫu cấy hoại 
Hình 4: Biến động tỷ lệ hình thành mô sẹo 
theo đường kính mẫu cấy (A) (≤2 mm có 
n=133 và >2 mm có n=146); nồng độ agar làm 
môi trường (B) và bổ sung chất điều tiết sinh 
trưởng (C) (n=30 ở mỗi nghiệm thức)
A
B
C
VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2
24 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015
thí nghiệm quan trọng hơn việc bổ sung chất 
kích thích sinh trưởng bởi vì khi rong sụn đã 
thích nghi với môi trường thí nghiệm thì đã tự 
tổng hợp đủ chất kích thích sinh trưởng cần 
thiết để phát sinh mô sẹo một cách tự nhiên. 
Việc bổ sung thêm chất điều tiết sinh trưởng 
có thể làm mất cân bằng auxins và cytokinins 
hoặc bị thừa, không cần thiết.
V.	KẾT	LUẬN	VÀ	ĐỀ	XUẤT
Kết	luận
Việc nghiên cứu phát sinh mô sẹo ở rong 
sụn làm nguyên liệu tái sinh thành cây giống ở 
rong sụn đã bước đầu được thử nghiệm thành 
công với tỷ lệ mô sẹo đạt được lên tới 45,16% 
sau 14 ngày cảm ứng. Việc hình thành mô sẹo 
có thể được bắt đầu từ sau 5 ngày cấy và chỉ 
kéo dài được khoảng 10 ngày.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra quá trình 
phát sinh mô sẹo phụ thuộc vào nhiều yếu tố 
như kích thước mẫu cấy, nồng độ agar sử dụng 
làm môi trường. Bước đầu xác định việc hàm 
lượng agar làm mô trường cấy mẫu thích hợp 
là 1,5%; mẫu cấy có đường kính > 2 mm sẽ 
cho hiệu quả phát sinh mô sẹo cao. Ngoài ra, 
nuôi thích nghi rong trong phòng thí nghiệm 
trước khi tạo mô sẹo là điều kiện bắt buộc thực 
hiện.
Đề	xuất
Mặc dù đã tạo được mô sẹo trong phòng 
thí nghiệm, tuy nhiên đây chỉ là kết quả bước 
đầu. Cần phải làm thêm nhiều lần thí nghiệm 
để khẳng định được quy trình ổn định và hiệu 
quả. Ngoài ra, tốc độ phát triển của mô sẹo còn 
thấp và hiện tượng chết trắng vẫn xảy ra trên 
nhiều mẫu cấy. Cần phải nghiên cứu xác định 
được nguyên nhân và phương án khắc phục.
Việc xử lý vô trùng mẫu cấy bằng hỗn 
hợp kháng sinh bước đầu cho hiệu quả cao 
nhưng mất nhiều thời gian và chi phí cao. Cần 
nghiên cứu thử nghiệm một số phương pháp 
tỷ lệ hình thành mô sẹo cao hơn so với mẫu 
có đường kính nhỏ hơn. Có thể mẫu có kích 
thước nhỏ thường là nhánh mới sinh trong quá 
trình thích nghi ở phòng thí nghiệm nên các tế 
bào còn non, lớp vỏ mẫu cấy mỏng dẫn đến 
khả năng ngấm chất kháng sinh nhiều gây ức 
chế sinh trưởng. Điều này đã được Reddy và 
ctv., (2003) và Sulistiani và ctv., (2012) làm 
sáng tỏ trong nghiên cứu của mình. Như vậy, 
kích thước mẫu cấy của mẫu cấy có ảnh hưởng 
đến tỷ lệ cảm ứng mô sẹo trong nuôi cấy mô.
Kết quả thử nghiệm chỉ ra rằng agar 1,5% 
cho hiệu quả cảm ứng tạo mô sẹo cao nhất với 
59,26% số mẫu cấy hình thành mô sẹo dạng 
sợi sau 14 ngày nuôi cấy. Các nồng độ agar 
còn lại cho tỷ lệ cảm ứng mô sẹo từ 22-40%. 
Kết quả này tương tự nghiên cứu của Reddy 
và ctv., (2003), với nồng độ agar 1,5% cho 
82% mẫu cấy hình thành mô sẹo sau 2 tuần, 
trong khi nồng độ 0,8% tỷ lệ này thấp hơn 
nhiều (Reddy và ctv., 2003). Ở nồng độ agar 
2%, tỷ lệ hình thành mô sẹo thấp hơn hẳn có 
thể do môi trường có độ cứng cao, giữ lại dinh 
dưỡng và mẫu rong không đủ khả năng thẩm 
thấu dinh dưỡng từ thạch. Điều này chứng tỏ 
rằng, tính chất vật lý của môi trường mà cụ thể 
là độ cứng của thạch có ảnh hưởng đến việc 
hình thành mô sẹo.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra, bổ sung 
chất điều tiết sinh trưởng BA (6 - benzyl 
aminopurine) không làm tăng tỷ lệ hình thành 
mô sẹo ở rong sụn. Điều này tương tự nhận 
định của Reddy và ctv., (2003) nhưng trái với 
nhận định của các tác giả khác, rằng việc bổ 
sung chất điều tiết sinh trưởng làm tăng tỷ 
lệ cảm ứng mô sẹo và sự phát triển của mô 
sẹo rong biển (Dawes và Koch, 1991; Huang 
và Fujita, 1997; Yokoya và Handro, 2004; 
Yokoya và ctv., 2004; Munoz và ctv., 2006; 
Sulistiani và ctv., 2012). Theo Reddy và ctv., 
(2003), việc thích nghi rong sụn trong phòng 
VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2
TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015 25
Polne-Fuller, M., Gibor, A., 1987. Calluses and 
callus-like growth in seaweeds: induction 
and culture. Hydrobiologia, 151/152:131–
138.
Reddy, C.R.K., Kumar, G.R.K., Siddhanta, A.K., 
Tewari, A., Eswaran, K., 2003. In vitro 
somatic embryogensis and regeneration of 
somatic embryos from pigmented callues 
of Kappaphycus alvarezii (Doty) Doty 
(Rhodophyta, Gigartinales). Journal of 
Phycology, 39(3): 610-616.
Reddy, C., Jha, B., Fujita, Y., Ohno, M., 2008. 
Seaweed micropropagation techniques and 
their potentials: an overview. Journal of 
Applied Phycology, 20(5): 609-617.
Reddy, C.R.K., Gupta, V., Jha, B., 2010. 
Developments in biotechnology of red 
algae. In Red algae in the genomic age. J. 
Seckbach & D.J. Chapman (Eds.), Springer 
Netherlands. 13: 307-341.
Sulistiani, E., Soelistyowati, D.T., Alimuddin 
& Yani, S.A., 2012. Callus induction and 
filaments regeneration from callus of cottonii 
seaweed (Doty) collected from Natuna 
Islands, Riau Islands Province. Biotropia, 19 
(2): 103 -114.
Tatewaki, M., 1989. The simple method of 
seaweed axenic culture. The Korean Journal 
of Phycology, 4(2): 183-189. 
Yeong, H.Y., Phang, S.M., Reddy, C.R.K., 
Khalid, N., 2014. Production of clonal 
planting materials from Gracilaria changii 
and Kappaphycus alvarezii through tissue 
culture and culture of G. changii explants 
in airlift photobioreactor. Journal of Applied 
Phycology, 26: 729-746.
Yokoya, N.S., West, J.A., Luchi, A.E., 2004. 
Effect of plant growth regulator on callus 
formation, growth and regeneration in axenic 
tissue culture of Gracilaria tenuistipitata 
and Gracilaria perplexa (Gracilariales, 
Rhodophyta). Phycological Research, 52: 
244-54.
vô trùng khác như các loại hóa chất khử trùng 
nhanh như cồn, formol nồng độ thấp
TÀI	LIỆU	THAM	KHẢO
Tài	liệu	tiếng	Việt
Đào Duy Thu, Nguyễn Văn Nguyên và Trần Mai 
Đức, 2014. Hiện trạng nghề trồng rong sụn 
(Kappaphycus alvarezii, Doty) ở Việt Nam. 
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông 
thôn, tháng 9/2014:221-228.
Tài	liệu	tiếng	Anh
Baweja, B., Sahoo, D., García-Jiménez, P., 
Robaina, R.R., 2009. Seaweed tissue culture 
as applied to biotechnology: Problems, 
achievements and prospects. Phycological 
Research, 57: 45 - 58.
Dawes, C.J., Koch, E.W., 1991. Branch, 
microprapagule and tissue culture of the 
red alga Eucheuma denticulatum and 
Kappaphycus alvarezii farmed in the 
Philippines. Journal of Applied Phycology, 
3: 247–257
Dawes, C.J., Trono, G.C., Lluisma, A.O., 
1993. Clonal propagation of Eucheuma 
denticulatum and Kappaphycus alvarezii for 
Philippines seaweed farms. Hydrobiologia, 
260/261: 379–83
Huang, W., Fujita, Y., 1997. Callus induction and 
thallus regeneration in some species of red 
algae. Phycological Research. 45:105–11.
Kumar, G.R., Reddy, C.R.K., Jha, B., 2007. Callus 
induction and thallus regeneration from 
callus of phycocolloid yielding seaweeds 
from the Indian coast. Journal of Applied 
Phycology, 19:15–25
Muñoz, J., Cahue-López, A.C., Patiño, R., Robledo, 
D., 2006. Use of plant growth regulators in 
micropropagation of Kappaphycus alvarezii 
(Doty) in airlift bioreactors. Journal of 
Applied Phycology, 18:209 – 218.
VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2
26 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015
TISSUE CULTURE OF COTTONI SEAWEED (Kappaphycus alvarezii, 
Doty): PRELIMINARY RESULTS OF IN VITRO CALLUS INDUCTION
Dao Duy Thu1*, Pham Thi Mat1, Vu Thi Hoai1, Nguyen Van Nguyen1
ABSTRACT
The callus is an essential material to produce propagules in seaweed tissue culture 
technology. The study presents preliminary results of experimental callus induction in 
Kappaphycus alvarezii using culture medium PES at salinity of 28‰; aseptic culture 
condition with a mixture of antibiotics; and callus induction in temperature of 25°C (±1°C), 
cool white fluorescent irradiance of 5 μmol photons m−2 s−1 and light regime with light:dark 
equals 12:12. The results showed that all experimental explants were not contaminated. 
The primary result showed that callus induction rate was 45.16% and earliest callus could 
appear after 5 day cultivation. The callus induction depended strongly on size of explants, 
agar concentration in medium and not depend on the plant growth regulator addition. 
Keywords: Cottoni seaweed, Kappaphycus alvarezii, callus induction, Vietnam
Người phản biện: ThS. Võ Minh Sơn
Ngày nhận bài: 29/5/2015
Ngày thông qua phản biện: 03/8/2015
Ngày duyệt đăng: 07/8/2015
1Research Institute for Marine Fisheries
* Email: ddthu@rimf.org.vn

File đính kèm:

  • pdfnuoi_cay_mo_rong_sun_kappaphycus_alvarezii_doty_ket_qua_buoc.pdf