Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam

Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp nghiên cứu về

tiềm năng và thực trạng phát triển loại hình du lịch dựa trên khai thác giá trị các di sản văn hóa trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam. Thực tế cho thấy, mặc dù Quảng Nam là tỉnh có khá nhiều di sản văn hóa, nhưng

việc khai thác giá trị của nó để phục vụ phát triển du lịch chưa đạt được hiệu quả cao nhất. Từ đó, bài

viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác giá trị của các di sản văn hóa vào phát

triển du lịch ở tỉnh Quảng Nam hiện nay.

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam trang 1

Trang 1

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam trang 2

Trang 2

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam trang 3

Trang 3

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam trang 4

Trang 4

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam trang 5

Trang 5

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam trang 6

Trang 6

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 7040
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam

Nghiên cứu tiềm năng phát triển loại hình du lịch di sản tại tỉnh Quảng Nam
 An 
đạt hơn 287 tỷ đồng. Đây là những con số khá ấn 
tượng nếu biết năm 1999 chỉ khoảng 200 nghìn 
lượt khách du lịch đến Hội An. Tương tự, với Khu 
đền tháp Mỹ Sơn (xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên) 
danh hiệu Di sản văn hóa thế giới cũng đã đánh 
dấu sự chuyển biến mạnh mẽ du lịch nơi đây với 
lượng khách tăng đột biến qua từng năm, nếu năm 
1999 chỉ khoảng 3 nghìn lượt khách mua vé tham 
quan thì năm 2019 hơn 420 nghìn lượt khách đã 
tham quan du lịch đến Mỹ Sơn, tổng doanh thu từ 
các hoạt động du lịch, dịch vụ gần 66 tỷ đồng [3]. 
Thời gian qua, ngành Du lịch Quảng Nam đã 
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Những 
chỉ tiêu về khách, thu nhập, tỷ trọng GDP và việc 
làm đã khẳng định vai trò của ngành Du lịch 
Quảng Nam trong nền kinh tế của tỉnh, góp phần 
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm 
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn và phát 
huy giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường, giữ vững 
an ninh, quốc phòng. Doanh thu từ du lịch cũng 
như từ những dịch vụ hỗ trợ đã thực sự cải thiện 
cuộc sống của người dân Quảng Nam và làm tươi 
sáng diện mạo kinh tế - xã hội của tỉnh. 
Về bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị di 
sản vào phát triển du lịch 
Trong phát triển du lịch, Quảng Nam luôn 
xác định bảo tồn di sản phải gắn với phát triển du 
lịch bền vững. Do đó, công tác nghiên cứu, quản 
lý, tu bổ di sản văn hóa đều gắn với mục tiêu này, 
xem đây là mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Hiệu 
quả từ việc tu bổ di tích mang lại không chỉ giúp 
các di tích an toàn hơn mà còn tạo điều kiện để 
phát huy giá trị di sản phục vụ phát triển du lịch. 
Tỉnh Quảng Nam đã đạt được những thành quả 
đáng nghi nhận trong công tác bảo tồn và phát huy 
giá trị các di sản văn hóa nói chung, hai di sản văn 
hóa thế giới Khu di tích Mỹ Sơn và Đô thị cổ Hội 
An, khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm 
- Hội An nói riêng. Có thể khẳng định, vai trò của 
di sản trong phát triển du lịch rất quan trọng, thể 
hiện rõ nét ở lượng khách đến hai di sản ngày càng 
đông, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy nhiều hoạt động 
liên quan như phát triển sản phẩm làng nghề; gìn 
giữ bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể và phi vật 
thể, đặc biệt giúp lan tỏa du lịch ra các địa phương 
và vùng lân cận. 
Hàng chục dự án, chương trình đầu tư từ các 
chính phủ và tổ chức quốc tế như Quỹ Đại sứ 
Canada; Quỹ Đại sứ Hoa kỳ; Quỹ Công chúa Hà 
Lan; Quỹ JICA Nhật Bản; Tổ chức DED và GIZ 
của Đức; Hội châu Á Hoa Kỳ; UNESCO khu vực 
châu Á Thái Bình Dương; Văn phòng UNESCO 
tại Hà Nội... với số tiền tài trợ hàng chục tỷ đồng, 
giúp hàng trăm ngôi nhà cổ Hội An được trùng tu 
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 15 (2020) 
17 
bảo tồn vững chắc. Tương tự, tại Khu đền tháp Mỹ 
Sơn, kể từ năm 2000, các tổ chức trong nước, quốc 
tế như Lerici, MAG, JICA, Trường Đại học 
Milan, Viện ASI (Ấn Độ), Tổ chức America 
Express, Văn phòng UNESCO Hà Nội, Viện 
Trùng tu di tích, Viện Khảo cổ, Cục Di sản... đã 
hỗ trợ tài chính và kỹ thuật tiến hành phát lộ, bảo 
tồn thành công nhiều ngôi đền tháp nơi đây. Điển 
hình, có thể kể đến Dự án trùng tu bảo tồn nhóm 
tháp G (Italia) và Dự án bảo tồn các nhóm tháp K, 
H, A (Ấn Độ). Trong đó, việc bảo tồn thành công 
nhóm tháp G (2003 - 2013) đã trở thành hình mẫu 
cho việc trùng tu các nhóm tháp còn lại, không chỉ 
ở Mỹ Sơn, Quảng Nam mà rộng hơn là các đền 
tháp trên dải đất miền Trung. Qua các dự án hỗ trợ 
về phát triển du lịch của các tổ chức quốc tế, bước 
đầu đã mang lại cho du lịch Quảng Nam một số 
kết quả tích cực. 
Trải qua hành trình 20 năm kể từ khi được 
UNESCO vinh danh, vượt qua những thử thách 
khắc nghiệt của thời gian và thời tiết, thiên tai 
khắc nghiệt, các di sản quý báu trên vùng đất 
Quảng Nam đã được bảo vệ, trùng tu, tôn tạo kịp 
thời, hiệu quả nên ngày càng trở nên lung linh 
nhiều sắc màu trong mắt của bè bạn năm châu, trở 
thành điểm đến ấn tượng đối với du khách trong 
hành trình khám phá các di sản ở miền Trung. 
Về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, 
hạ tầng giao thông phục vụ phát triển du lịch 
Trong những năm gần đây, Quảng Nam tiếp 
tục nhận được nhiều dự án hỗ trợ phát triển du 
lịch, dựa vào khai thác văn hóa địa phương để phát 
triển du lịch bền vững, qua đó cải thiện sinh kế 
cho cư dân khu vực nông thôn, miền núi. Đó là 
những trợ giúp về xây dựng chiến lược, phát triển 
loại hình du lịch cộng đồng, xây dựng và quảng 
bá thương hiệu, phát triển sản phẩm thủ công mỹ 
nghệ Từ những dự án bảo tồn hiệu quả, tỉnh 
Quảng Nam đã giữ được diện mạo của hai di sản 
văn hóa thế giới Đô thị cổ Hội An và Khu đền tháp 
Mỹ Sơn. Cũng thông qua tài trợ của chính phủ 
Đan Mạch, Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm 
mới được quản lý và phát huy tốt như hiện nay. 
Đồng thời, chiến lược phát triển du lịch Quảng 
Nam trở nên rõ ràng hơn nhờ sự giúp sức của các 
tổ chức quốc tế, đặc biệt là UNESCO. 
Về một số khó khăn trong phát triển loại hình 
du lịch di sản ở Quảng Nam 
Thứ nhất, Quảng Nam có khoảng 350 di tích, 
hai di sản văn hóa thế giới vốn nhạy cảm với biến 
đổi khí hậu như Mỹ Sơn và Hội An, công tác bảo 
tồn văn hóa trong những năm tới còn rất nhiều 
thách thức. Đồng thời, các dự án hỗ trợ về phát 
triển du lịch bước đầu đã mang lại một số kết quả 
tích cực, nhưng chưa được tổng kết, rút kinh 
nghiệm và định hướng phát huy hiệu quả trong 
những năm tới. 
Thứ hai, chất lượng xây dựng và quản lý quy 
hoạch, thương hiệu, sản phẩm, nhân lực của 
ngành du lịch Quảng Nam còn yếu, nên phần nào 
đó vai trò của các chuyên gia, tổ chức quốc tế vẫn 
cần thiết với công tác bảo tồn di sản văn hóa góp 
phần vào sự phát triển bền vững của du lịch Quảng 
Nam trong tương lai [2]. Hội An đang là điểm đến 
hút khách số 1 trong Hành trình Di sản miền 
Trung (gồm Đà Nẵng, Huế, Quảng Nam), tuy 
nhiên, chính đô thị cổ này cũng đang phải đối diện 
với những vấn đề không dễ giải quyết như sụt lở 
ở Cửa Đại, sự xuống cấp của những ngôi nhà cổ 
đã tồn tại hàng trăm năm. Lượng khách đông 
và đều mang lại nguồn thu ổn định cho Hội An. 
Song nếu lượng khách đến quá đông sẽ ảnh hưởng 
tới chất lượng dịch vụ cũng như tác động tiêu cực 
tới an ninh, môi trường của đô thị cổ này. 
Thứ ba, nguồn nhân lực du lịch Quảng Nam, 
Theo số liệu khảo sát từ Sở Văn hóa, Thể thao và 
Du lịch, tính đến hết năm 2019 ngành du lịch 
Quảng Nam sử dụng khoảng 15.000 lao động, chủ 
yếu làm việc tại các doanh nghiệp lữ hành và các 
cơ sở dịch vụ du lịch (lưu trú, lữ hành, vận chuyển, 
dịch vụ nhà hàng, hướng dẫn viên). Trong đó, 
khối lưu trú chiếm số lượng nhiều nhất (60%); lữ 
hành, vận chuyển, hướng dẫn viên (10%); khối các 
dịch vụ khác (30%) [7]. Bên cạnh những ưu điểm 
như đa số lao động trẻ tuổi, năng động, trình độ 
chuyên môn, ngoại ngữ tốt do được đào tạo bài bản, 
phù hợp với yêu cầu công việc thực tiễn; môi 
trường làm việc ngày càng chuyên nghiệp. 
Nguồn nhân lực du lịch Quảng Nam cũng bộc lộ 
nhiều hạn chế như chất lượng đội ngũ nhân lực 
không đồng đều về chuyên môn lẫn khả năng ngoại 
ngữ; thiếu lao động lành nghề; khan hiếm về nhân 
lực cấp quản lý có chuyên môn cao; chất lượng đội 
ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên tại các khu, 
điểm di tích còn yếu về kỹ năng, thiếu kinh nghiệm 
nghề nghiệp, kiến thức văn hóa, lịch sử; khả năng 
giao tiếp ngoại ngữ, nhất là những ngoại ngữ 
“hiếm” như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung 
Quốc chưa đảm bảo. Đặc biệt, tỷ lệ lao động 
được cấp chứng chỉ theo tiêu chuẩn VTOS (Tiêu 
chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam) tương đối 
thấp (khoảng 20%); chứng chỉ đào tạo viên 
(khoảng 10%); mức độ đáp ứng yêu cầu công việc 
chỉ đạt tỷ lệ từ 40-60% tùy theo ngành nghề; 
khoảng 10% đáp ứng vượt mức kỳ vọng của công 
việc, tập trung chủ yếu ở các khối cơ sở lưu trú du 
lịch (từ 3 sao trở lên) hoặc doanh nghiệp quốc tế và 
các cơ sở dịch vụ, du lịch cao cấp [7]. 
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 15 (2020) 
18 
Thứ tư, Quảng Nam nhận được nhiều sự hỗ 
trợ từ các dự án của UNESCO, ILO, EU về đào 
tạo nghề du lịch cho người dân nhưng những dự 
án này sau khi kết thúc chưa được tổng kết, rút 
kinh nghiệm và định hướng phát huy hiệu quả 
trong những năm tiếp theo. Do đó, nguồn nhân lực 
làm du lịch của Quảng Nam vẫn là một trong 
những điểm khó. Trừ Hội An với bề dày làm du 
lịch lâu năm, những địa danh, điểm đến du lịch 
mới đưa vào khai thác như làng dân tộc Cơ tu, 
Triêm Tây người dân bản địa mới bắt đầu làm 
quen với nghề du lịch, dịch vụ. 
3.3. Một số giải pháp phát triển loại hình du lịch 
di sản của tỉnh Quảng Nam hiện nay 
Một là, ngành văn hóa và du lịch cần phải 
vạch ra định hướng lớn và chiến lược bảo tồn di 
sản để phát triền du lịch bền vững; nghiên cứu các 
giá trị văn hóa độc đáo của từng loại di sản để tạo 
ra những sản phẩm du lịch mới, đáp ứng nhu cầu 
của du khách. 
Hai là, lãnh đạo các cấp, ngành cần quan tâm 
nhiều hơn trong công tác lãnh, chỉ đạo khi các đơn 
vị, doanh nghiệp đang quản lý, khai thác di tích 
phải sử dụng kinh phí từ nguồn thu dịch vụ để đầu 
tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa và 
danh lam thắng cảnh để đảm bảo hài hòa giữa bảo 
tồn, khai thác, phát triển bền vững. 
Ba là, các công ty dịch vụ du lịch, bảo tàng, 
di tích và nhà sưu tập cần có sự phối hợp, trao đổi 
thông tin để xây dựng các tour du lịch di sản văn 
hóa độc đáo, đặc sắc, có sức hấp dẫn, lôi cuốn du 
khách trong và ngoài nước. 
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực du lịch, nhất 
là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch. Tăng cường đào 
tạo, bồi dưỡng kiến thức lịch sử, văn hóa, ngoại 
ngữ, kỹ năng giao tiếp cho đội ngũ hướng dẫn viên 
tại điểm/khu du lịch để giới thiệu cho du khách về 
di tích và các nhân vật lịch sử liên quan. 
Năm là, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch để 
hu hút du khách. Quảng Nam cần tiếp tục đa dạng 
các loại hình du lịch, sản phẩm du lịch thông qua 
việc đầu tư, nâng cấp hạ tầng cơ sở phục vụ phát 
triển du lịch; xúc tiến, thu hút đầu tư vào những 
điểm có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, tạo 
sự liên kết vùng và phát triển cân bằng giữa vùng 
Đông và vùng Tây, tăng cường lồng ghép trong 
phát triển du lịch, tạo ra mối liên kết giữa du lịch 
sinh thái và du lịch văn hóa. Ngoài việc tổ chức 
tham quan các di sản vật thể (đền tháp, mộ tháp), 
nhà trưng bày bảo tàng tại di tích, cần tổ chức các 
hoạt động văn hóa như: kể chuyện truyền thuyết 
về các vị thần được thờ trong khu thánh địa; tái 
hiện lễ hội tôn giáo theo lối giả sử của chủ nhân 
khu thánh địa trước đây theo kiểu phim 3D, lễ hội 
văn hóa của đồng bào dân tộc sinh sống lâu đời ở 
nơi đây; đăng cai tổ chức hội thảo, hội nghị khoa 
học khảo cổ học trong nước và quốc tế,... để gia 
tăng các sản phẩm dịch vụ du lịch nhằm thu hút 
du khách. Bên cạnh Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao 
Chàm và hai Di sản Văn hóa thế giới Hội An và 
Mỹ Sơn, Quảng Nam còn có cả không gian rộng 
lớn phía Tây để phát triển du lịch dựa vào hệ thống 
núi rừng trùng điệp và các nét văn hóa đặc trưng 
của các tộc người bao đời sinh sống. Ngoài ra, 
phía Nam cầu Cửa Đại với bờ biển dài đầy tiềm 
năng, nhiều bãi tắm đẹp kết hợp các điểm du lịch 
mới... sẽ là không gian đầy tiềm năng hứa hẹn trở 
thành vùng đất thịnh vượng để phát triển ngành 
công nghiệp không khói. 
Sáu là, ngoài việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích, 
môi trường cảnh quan một cách trung thực với thời 
điểm lịch sử, phục dựng lại hầm hào, chiến lũy, cần 
phải tái hiện không gian sinh hoạt của các chiến sĩ 
trong các hầm, địa đạo, chiến khu để du khách 
có cơ hội được hóa thân, trải nghiệm cuộc sống của 
các chiến sĩ trong thời kháng chiến. Cần tái hiện 
hoạt cảnh câu chuyện trong quá khứ lồng ghép với 
thuyết minh để tăng tính hấp dẫn cho di sản. 
Bảy là, cần thường xuyên đổi mới hoạt động, 
nội dung, nghệ thuật trưng bày bảo tàng. Chỉnh lý, 
nâng cấp hệ thống trang thiết bị; đào tạo, chuẩn 
hóa đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên. 
Tăng cường công tác quảng bá bảo tàng đến công 
chúng. Đẩy mạnh công tác marketing; đồng thời, 
tạo điều kiện tối đa cho du khách sử dụng các dịch 
vụ du lịch tại bảo tàng. Tổ chức một số hoạt động 
sự kiện lịch sử, văn hóa dân tộc tại bảo tàng, 
Cần bố trí không gian triển lãm riêng ưu tiên cho 
các nhà sưu tập để trưng bày, giới thiệu cho công 
chúng và du khách thưởng lãm các bộ sưu tập cổ 
vật, hiện vật văn hóa, đá nghệ thuật, bon sai, đặc 
biệt là trong các dịp lễ hội. Khuyến khích, tạo điều 
kiện cho các nhà sưu tập xây dựng bảo tàng tư 
nhân, trưng bày tại chỗ, tạo điểm đến mới cho du 
khách tham quan. 
4. Kết luận 
Trong những năm gần đây, mặc dù tỉnh 
Quảng Nam đã có nhiều cố gắng, nỗ lực để khai 
thác, phát huy giá trị của các di sản trong phát triển 
du lịch; tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, chưa 
khai thác đầy đủ tiềm năng quý giá này để xứng 
tầm đối với một tỉnh mà du lịch là ngành kinh tế 
mũi nhọn. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế 
trên, cần có những giải pháp phù hợp để khai thác 
hiệu quả các giá trị văn hóa, góp phần gia tăng tính 
hấp dẫn của các di sản đối với du khách. Quảng 
Nam cần có chiến lược phát triển loại hình du lịch 
di sản, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch gắn với 
Chuyên mục: Quản trị - Quản lý - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 15 (2020) 
19 
công tác bảo tồn di sản, phát triển nguồn nhân lực 
du lịch, đặc biệt là đội ngũ hướng dẫn viên du lịch. 
Mỗi di sản đều có các đặc thù và thế mạnh riêng, 
do đó, cần tìm được điểm nhấn đặc sắc nhất để tạo 
ra các sản phẩm du lịch độc đáo, mang lại ấn 
tượng cho du khách. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Thị Thu Hà. (2016). Quản lý di sản văn hóa và phát triển du lịch ở đô thị cổ Hội An, tỉnh 
Quảng Nam. Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Hà Nội. 
[2]. Thu Hiền. (2015). Để Quảng Nam bảo tồn di sản văn hóa và phát triển du lịch bền vững. 
 Cập nhật ngày 23 tháng 9 năm 2015. 
[3]. Vĩnh Lộc. (2020). Quảng Nam bảo tồn di sản gắn với phát triển du lịch. Báo Quảng Nam. 
[4]. Nguyễn Thị Phương. (2017). Nghiên cứu về phát triển du lịch tỉnh Quảng Nam. Luận văn Thạc sĩ Du 
lịch, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[5]. Quốc hội. (2001). Luật Di sản, số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001. 
[6]. Hà Văn Siêu. (2018). Di sản văn hóa với phát triển du lịch.  Cập nhật 
26/07/2018. 
[7]. Lê Đức Thọ. (2019). Nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch tại Quảng Nam hiện 
nay. Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, Số 114, tr.23-27. 
[8]. Khánh Linh. (2015). Năm 2015, Quảng Nam đón 3,8 triệu lượt khách du lịch”, 
 Cập nhật ngày 18/12/2015. 
[9]. K.T. (2019). Khách du lịch đến với Quảng Nam ngày một tăng, https://dangcongsan.vn. Cập nhật 
ngày 26/12/2019. 
Thông tin tác giả: 
 Lê Đức Thọ 
- Đơn vị công tác: Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng 
- Địa chỉ email: ductho@danavtc.edu.vn 
Ngày nhận bài: 04/9/2020 
Ngày nhận bản sửa: 28/9/2020 
Ngày duyệt đăng: 30/12/2020 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tiem_nang_phat_trien_loai_hinh_du_lich_di_san_tai.pdf