Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh u nang bã đậu trong ruột cá chép do bào tử sợi gây ra tại Hải Dương
TÓM TẮT
Hải Dương là một tỉnh có diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt phát triển nhất ở các tỉnh phía Bắc,
Việt Nam, trong đó cá chép là đối tượng được nuôi ngày càng nhiều. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
dịch bệnh liên tục xảy ra trên đối tượng cá nuôi này, gây nhiều thiệt hại cho người nuôi, điển hình là bệnh
u nang bã đậu ở ruột do bào tử sợi gây ra. Bài báo này cung cấp thông tin về đặc điểm bệnh học trên cơ sở
điều tra 212 hộ nuôi cá với 257 ao nuôi tại 4 huyện trong tỉnh. Mẫu cá bệnh được thu thập, mổ khám và
phân tích để xác định đặc điểm, triệu chứng bệnh, bệnh tích đại thể và vi thể bào nang. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, tại Hải Dương, nuôi cá ao nước ngọt với hình thức nuôi ghép là chính (chiếm 99,61%), trong đó
tỷ lệ cá chép được thả nuôi ghép với những loài cá khác là 15,63% - 32,10%. Tỷ lệ ao nuôi cá chép bị bệnh
u nang do bào tử sợi chiếm 31,91%. Các ao nuôi không khử trùng có nguy cơ bị bệnh gấp 4,28 lần so với
ao nuôi có khử trùng. Cá bị bệnh thường có biểu hiện như chậm lớn, bơi lờ đờ, đen thân, bụng chướng to,
ruột sưng, tích nước, trong ruột chứa nhiều bào nang (khoảng 92 bào nang/cá) u màu trắng bã đậu có kích
thước 2,65 x 2,04 cm (tối đa 5,3 x 3,7 cm). Bào tử sợi được nhận dạng thuộc loài Thelohanellus kitauei.
Bệnh u nang do bào tử sợi đã gây thiệt hại cho người nuôi do cá chậm lớn, tiêu tốn thức ăn, gây chết cá
và giá cá thương phẩm thấp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh u nang bã đậu trong ruột cá chép do bào tử sợi gây ra tại Hải Dương
àng, Ninh Giang và Thanh Miện của tỉnh Hải Dương. Các ao nuôi được gọi là bị bệnh do bào tử sợi khi trong ao có cá bị bệnh hoặc bị chết với các dấu hiệu đặc trưng của bệnh. Ba mươi lăm mẫu cá chép bệnh được thu từ các ao cá bị bệnh trong vùng để mổ khám nhằm thu thập, tổng hợp dấu hiệu triệu chứng, bệnh tích, đếm số u nang và đo kích thước khối u đường ruột bằng thước Panmer có độ sai số 0,1mm; 30 mẫu bào tử sợi đường ruột được làm tiêu bản, nhuộm bằng Crystal violet 2% trong 1 phút, soi quan sát hình thái và đo kích thước dưới kính hiển vi có độ phóng đại 10x100 tại phòng thí nghiệm Bệnh thủy sản, Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2017. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp: Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở tổng hợp thông tin (kế thừa từ sách, báo, tạp chí, báo cáo của chính quyền địa phương và báo cáo đề tài nghiên cứu) và theo phương pháp điều tra trực tiếp hộ dân nuôi cá ao. Phương pháp điều tra: Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi điều tra đã được chuẩn bị sẵn đối với toàn bộ 212 hộ gia đình nuôi cá ao thuộc 4 huyện trong tỉnh Hải Dương. Phương pháp phỏng vấn và bộ câu hỏi được xây dựng trên cơ sở tham khảo bộ câu hỏi điều tra ngang và tính tỷ suất chênh OR trong nghiên cứu dịch tễ học mô tả các hộ nuôi cá (Phan et al., 2010). Nội dung chứa đựng các thông tin như số ao, diện tích ao nuôi của mỗi hộ, loài nuôi, tỷ lệ ghép, tỷ lệ cá chép, ngày thả, tình hình nuôi dưỡng và chăm sóc cá ao. Bộ câu hỏi được xây dựng sau khi điều tra thử đối với 5 hộ, sau đó điều chỉnh sửa đổi cho phù hợp để chính thức điều tra phỏng vấn 212 hộ nuôi cá. Phương pháp thu mẫu, mô tả triệu chứng, bệnh tích và phân tích mẫu cá bệnh được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu ký sinh trùng của Hà Ký và Bùi Quang Tề, 2007; Arthur và Bui Quang Te, 2006. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu: Số liệu điều tra phỏng vấn được mã hóa, xử lý trên phần mềm Excel 2010. Sử dụng phần mềm thống kê mô tả: trung bình ± độ lệch chuẩn, lớn nhất, nhỏ nhất, tỷ lệ (%) và các kiểm định mẫu. III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Tình hình nuôi và bệnh bào tử sợi trên cá chép tại Hải Dương 3.1.1. Tình hình nuôi cá trong ao tại Hải Dương Kết quả điều tra phỏng vấn 212 hộ nuôi cá với 257 ao thuộc 4 huyện trong tỉnh Hải Dương cho kết quả được tổng hợp ở bảng 1. 78 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018 Bảng 1. Tình hình nuôi cá ao tại Hải Dương STT Địa danh (Huyện) Số hộ điều tra Số ao điều tra Diện tích trung bình của ao (m2) Nuôi đơn Nuôi ghép Số ao Tỷ lệ (%) Số ao Tỷ lệ (%) 1 Bình Giang 48 55 2914,60 ± 2360,19 0 0 55 100 2 Cẩm Giàng 32 52 3156,90 ± 1831,55 0 0 52 100 3 Ninh Giang 65 81 3806,30 ± 3309,26 0 0 81 100 4 Thanh Miện 56 69 2839,83 ± 1382,89 1 1,45 68 98,55 Tổng số 212 257 3224,60 ± 2129,71 1 0,39 256 99,61 Các ao nuôi cá tại các vùng điều tra có diện tích trung bình 3224,60 m2, diện tích nhỏ nhất là 100 m2, lớn nhất 18000m2. Nhìn chung diện tích ao nuôi này là phù hợp với phương thức nuôi bán thâm canh và thâm canh tại Hải Dương (Kim Văn Vạn và Trần Thị Loan, 2010). Qua điều tra cho thấy hầu hết các ao nuôi cá tại Hải Dương là ao nuôi ghép. Tỷ lệ và đối tượng nuôi ghép được thể hiện ở bảng 2. Bảng 2. Tỷ lệ ghép các loài cá nuôi trong ao tại Hải Dương STT Địa danh (Huyện) Tỷ lệ nuôi ghép (%) Cá trôi Cá mè Cá trắm Cá chép Cá rô phi Cá khác 1 Bình Giang 15,58 9 41,20 32,10 0 1,12 2 Cẩm Giàng 22,96 3,81 42,06 27,81 0 3,36 3 Ninh Giang 3,75 2,33 7,47 15,63 70,82 0 4 Thanh Miện 3,17 2,83 6,89 17,63 69,48 0 3.1.2 Tình hình bệnh bào tử sợi trong ruột của cá chép nuôi tại Hải Dương Qua điều tra 212 hộ nuôi cá ao tại 4 huyện nuôi thủy sản chủ lực trong tỉnh Hải Dương với 257 ao nuôi cho thấy tình hình bệnh bào tử sợi trên cá chép nuôi là khá nghiêm trọng. Kết quả điều tra được tổng hợp ở bảng 3. Bảng 3. Tình hình bệnh bào tử sợi trong ruột cá chép nuôi tại Hải Dương STT Địa danh (Huyện) Số ao điều tra Số ao bị bệnh Tỷ lệ ao bị bệnh (%) 1 Bình Giang 55 15 27,27 2 Cẩm Giàng 52 22 42,31 3 Ninh Giang 81 26 32,10 4 Thanh Miện 69 19 27,54 Tổng số 257 82 31,91 Kết quả điều tra ghi nhận gần 1/3 (31,91%) số ao nuôi cá tại Hải Dương bị bệnh bào tử sợi. Bệnh xảy ra trên các ao nuôi khắp các địa phương và dao động từ 27,27-42,31% số ao nuôi. Bệnh xảy ra nhiều nhất tại các ao nuôi tại Cẩm Giàng, nơi nuôi cá chép với tỷ lệ ghép cao (27,81%). Trong số các ao cá bị bệnh chỉ thấy xuất hiện bệnh trên cá chép mà không thấy xuất hiện ở đối tượng nuôi khác, mặc dù các ao đều nuôi ghép. Farhaduzzaman et al, 2010 cho thấy ở Bangladesh, bệnh bào tử sợi 79 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018 Bảng 4. Mối liên quan giữa việc khử trùng nước ao nuôi đến bệnh bào tử sợi Yếu tố nguy cơ lựa chọn Có bệnh Sự xuất hiện bệnh Tổng số Có bệnh Không có bệnh Nguy cơ Không khử trùng nước ao 4 2 6 Có khử trùng nước ao 78 171 251 Tổng số 82 173 257 Qua bảng 4, tính được tỷ suất chênh (OR) = 4,38. Do OR > 1, có thể thấy ao không được khử trùng nước khi nuôi, có nguy cơ bị bệnh nhiều gấp 4,38 lần so với ao được khử trùng trước khi nuôi. Tuy nhiên, khử trùng nước trước khi nuôi cũng không thể loại bỏ hết nguy cơ dẫn đến ao nuôi có mầm bệnh bào tử sợi. 3.2. Triệu chứng và bệnh tích bệnh bào tử sợi đường ruột cá chép nuôi 3.2.1. Triệu chứng bệnh bào tử sợi trên cá chép Trong quá trình điều tra tình hình nuôi và bệnh bào tử sợi trên cá chép tại Hải Dương, chúng tôi đã thu mẫu 35 con cá chép bệnh để theo dõi các triệu chứng và dấu hiệu bệnh lý. Kết quả theo dõi được tổng hợp ở bảng 5, hình 1 và 2. Bảng 5. Dấu hiệu bệnh lý cá chép bị bệnh bào tử sợi đường ruột (n=35) STT Triệu chứng của cá chép bệnh Số cá có triệu chứng (con) Tỷ lệ (%) 1 Cá đen thân, nổi vật vờ, dạt vào bờ 35 100 2 Quẫy mạnh, nhảy lên khỏi mặt nước 31 88,57 3 Bụng trướng to 35 100 4 Bong vây bụng 7 20 5 Lỗ hậu môn giãn rộng 5 14,29 6 Khi chết cơ thể dựng như đang bơi 13 37,14 Hình 1. Cá chép bị bệnh, bụng chướng to (đen thân, bong tróc vảy) còn xuất hiện cả trên cá trôi. Trong quá trình điều tra tình hình nuôi và bệnh bào tử sợi trên cá chép, một yếu tố được quan tâm đó là có hay không việc khử trùng nước ao nuôi liên quan đến tình hình bệnh bào tử sợi. Kết quả theo dõi được thể hiện ở bảng 4. 80 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018 Dấu hiệu cá đen thân cũng được các tác giả Võ Thế Dũng và Võ Thị Dung (2016) nhắc đến trên cá mặt quỷ bị bệnh bào tử sợi (thích bào tử trùng) ký sinh ở túi mật. 3.2.2. Bệnh tích cá chép bị bệnh bào tử sợi đường ruột Trong số cá chép bị bệnh mà chúng tôi thu mẫu và mổ khám đều thấy có hiện tượng tích nước ở các nội quan, ruột chứa nhiều khối u bã đậu làm cho thành ruột mỏng, tích dịch. Kết quả mổ khám được thể hiện ở bảng 6, hình 3 và 4. Hình 2. Cá chép bệnh bị lòi dom, chảy dịch màu trắng vàng Bảng 6. Bệnh tích đại thể của cá chép bị bệnh bào tử sợi (n =35) STT Bệnh tích đại thể Số cá biểu hiện bệnh tích (con) Tỷ lệ (%) 1 Thành ruột mỏng 35 100 2 Có bào nang trong ruột 35 100 3 Có dịch dạng thạch lỏng trong ruột 29 82,86 4 Vỡ ruột 3 8,57 5 Nội tạng khác bị sưng hoặc hoại tử 35 100 6 Bào nang ở cơ quan khác ngoài ruột 0 0 Hình 3. Bệnh tích đại thể của cá chép bị bệnh bào tử sợi đường ruột Hình 4. Số lượng và kích thước u nang tách ra từ ruột cá chép bị bệnh bào tử sợi 81 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018 Trong quá trình mổ khám 35 mẫu cá chép bị bệnh bào tử sợi đường ruột để đếm số bào nang ký sinh trong ruột và đo kích thước của 30 bào nang, chúng tôi thu được số liệu được trình bày tóm tắt ở bảng 7. Bảng 7. Số lượng và kích thước của bào nang ký sinh trong ruột cá chép STT Tiêu chí Số bào nang/cá (n1 = 35) Kích thước bào nang (n2 = 30) Chiều dài (cm) Chiều rộng (cm) 1 Lớn nhất 92 5,3 3,7 2 Nhỏ nhất 7 0,4 0,3 Trung bình 16,74 ± 13,99 2,65 ± 1,39 2,04 ± 0,87 Qua theo dõi chỉ thấy bào nang xuất hiện ở ruột cá chép mà không thấy xuất hiện ở cơ quan nội tạng khác. Trong khi đó báo cáo của Zhang et al., 2010 cho biết, bào nang bào tử sợi loài Myxobolus wulii lại ký sinh ở gan, tụy cá chép ở Trung Quốc và Nhật Bản. Trong số cá chép bị bệnh có biểu hiện triệu chứng và bệnh tích điển hình, có số lượng bào nang trung bình là 16,74 bào nang/cá, kích cỡ bào nang 2,65x2,04 cm. Tối đa có cá chứa đến 92 bào nang và bào nang lớn nhất đo được 3,7x5,3 cm. Kích thước bào nang tương đương kích thước bào nang bào tử sợi loài Thelohanellus kitauei gây bệnh u nang đường ruột cho cá chép ở Trung Quốc (2-3,6 cm) mà tác giả Lingtong et al., 2017 thông báo. Bào nang trong đường ruột cá chép có kích thước lớn hơn bào nang của các loài bào tử sợi ký sinh ở mang cá chép (Kim Văn Vạn, 2014). Bào tử sợi ký sinh trong ruột cá chép tại Hải Dương được làm tiêu bản, đo kích thước và so sánh với mẫu chuẩn của các tác giả Trung Quốc, Nhật Ban đã công bố. Kết quả đo và phân tích được thể hiện ở bảng 8, hình ảnh của bào tử sợi được thể hiện ở hình 5. Bảng 8. Kích thước bào tử sợi ký sinh trong ruột cá chép (n=30) STT Chỉ tiêu theo dõi Kích thước bào tử sợi mẫu nghiên cứu (μm) Kích thước* Thelohanellus kitauei (μm) 1 Chiều dài vỏ (DTB) 30,9 ± 2,78 38,41 ± 2,45 2 Chiều dài bào tử (DTB) 24,02 ± 1,84 25,98 ± 0,95 3 Chiều dài cực nang (DTB) 16,52 ± 1,84 14,73 ± 0,92 4 Chiều rộng vỏ (RTB) 13,85 ± 2,22 13,3 ± 0,87 5 Chiều rộng bào tử (RTB) 9,11 ± 2,08 8,72 ± 0,51 6 Chiều rộng cực nang (RTB) 5,85 ± 0,98 6,82 ± 0,45 7 Chiều dài roi (CDR) 280,05 ± 51,46 Roi xoắn 8-10 vòng trong cực nang Ghi chú: * Phân loại theo tác giả Lingtong et al., 2017 Bào tử sợi đường ruột (10x40) Cấu trúc bào tử sợi đường ruột (10x100) Bào tử sợi ký sinh ở ruột (mũi tên đen) và ở mang (mũi tên đỏ) (10x40) Hình 5. Hình ảnh bào tử sợi ký sinh ở ruột và ở mang cá chép Vỏ 1 Vỏ 2 Cực nang Roi 82 KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 6 - 2018 Qua kết quả theo dõi về hình thái và kích thước bào nang, bào tử sợi các mẫu thu được ở Hải Dương và so sánh với mẫu chuẩn của các tác giả ở Trung Quốc (Lingtong et al., 2017) và Nhật Bản (Syuzo Egusa và Kenji Nakajim, 1981) cho thấy cá chép nuôi ở Hải Dương bị bệnh u nang đường ruột do loài bào tử sợi Thelohanellus kitauei gây ra. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Cá nước ngọt được nuôi ở Hải Dương với hình thức nuôi ghép là chính, chiếm đến 99,61% số ao, trong đó tỷ lệ ghép cá chép từ 15,63 đến 32,1%. Trong số 257 ao điều tra, tỷ lệ ao nuôi bị bệnh bào tử sợi đường ruột chiếm 31,9%. Bệnh xảy ra ở các ao nuôi không được khử trùng nhiều gấp 4,38 lần ao được khử trùng. Cá bị bệnh có biểu hiện chướng bụng, đen thân, hay nhảy lên khỏi mặt nước, khi chết có tư thế như đang bơi, ruột sưng, thành ruột mỏng chứa nhiều bào nang màu trắng bã đậu có kích cỡ 2,04 x 2,65 cm. Bào tử sợi được phân loại thuộc loài Thelohanellus kitauei có một sợi tơ. Qua theo dõi các ao nuôi cá chép tại Hải Dương cho thấy thường xảy ra dịch bệnh u nang đường ruột ở các ao không được vệ sinh khử trùng trước khi thả giống, ao nhiều bùn và chất thải chăn nuôi. Do vậy để hạn chế dịch bệnh, các ao nuôi cần được tát cạn, hút bớt bùn, phơi nắng, bón vôi bột khử trùng. Hiện Khoa Thủy sản - Học viện Nông nghiệp Việt Nam đang thử nghiệm một số thuốc điều trị bệnh u nang có hiệu quả, cần sớm tổng kết thử nghiệm và công bố, hướng dẫn cho người nuôi sử dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arthur J R and B Q Te, 2006. Checklish of the parasites of fishes of Vietnam. FAO Fisheries Technical Paper No. 369/2. Rome. Italy. 133p. 2. Chi cục Thủy sản Hải Dương, 2015. Phát triển vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, Báo cáo tổng kết năm. 3. Võ Thế Dũng và Võ Thị Dung, 2016. Một số bệnh do ký sinh trùng đơn bào gây ra ở cá mặt quỷ bố mẹ. Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản, Đại học Nha Trang, số 4, 2016, trang 50-56. 4. Hà Ký - Bùi Quang Tề, 2007. Ký sinh trùng cá nước ngọt Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, tr. 212-213. 5. Kim Văn Vạn, 2014. Phân biệt bệnh kênh mang cá chép do ấu trùng sán lá Centrocestus formosanus và do thích bào tử trùng (Myxobolus sp.) gây ra. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y ISSN 1859-4751. Tập XX số 2, 2014. trang. 95-97 6. Kim Văn Vạn, Phan Trọng Bình và Nguyễn Thị Lan, 2013. Nghiên cứu dịch tễ ấu trùng sán lá truyền lây qua cá Chép thương phẩm (Cyprinus carpio). Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y ISSN 1859-4751, tập XX số 3, 2013, trang 69-73. 7. Kim Văn Vạn và Trần Thị Loan, 2010. Xây dựng mô hình nuôi ghép cá Trắm đen trong ao tại Hải Dương. Tạp chí Khoa học, Công nghệ & Môi trường. Sở KH & CN tỉnh Hải Dương. Số 3, 6-2010. Trang 19-21. 8. Kim Văn Vạn và Nguyễn Văn Thọ, 2012. Nghiên cứu dịch tễ ấu trùng sán lá truyền lây qua cá Chép giống (Cyprinus carpio) trong các hệ thống nuôi. Tạp chí Khoa học và Phát triển – Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội. ISSN 1859-0004. Tập 10 số 6, 2012, trang 933-939 9. Kim Văn Vạn và Nguyễn Văn Thọ, 2013. Nghiên cứu dịch tễ ấu trùng sán lá truyền lây qua cá Chép giống (Cyprinus carpio) theo mùa. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y ISSN 1859-4751, tập XX số 1, 2013, trang 74-81. 10. Lingtong, Mingmiao Lu, Keyan Quan, Wenxiang Li, Hong Zou, Shangong Wu, Jiangyong Wang and Guitang Wang, 2017. Intestinal disease of scattered mirror carp Cyprinus carpio caused by Thelohanellus kitauei and notes on the morphology and phylogeny of the Myxosporean from Sichuan Province, Southwest China. Chinese Journal of Oceanology and Limnology, 35No 3, pp 587–596. 11. Phan V. T., Ersboell A. K., Thanh N. T., Khue V. N., Ha T. N., Murrell K. D., 2010. Freshwater aquaculture nurseries and infection of fish with zoonotic trematodes, Vietnam, Emerg Infect Dis., 16, pp. 1905–9. 12. Syuzo Egusa and Kenji Nakajim, 1981. A New Myxozoa Thelohanellus kitauei, the Cause of Intestinal Giant Cystic Disease of Carp. Fish Pathology 15 (3/4) 213-218, 1981. 3 13. Yanhua Zhai, Zemao Gu, Qingxiang Guo, Zizhen Wu, Hongmei Wang, Yang Liu, 2016. New type of pathogenicity of Thelohanellus kitauei Egusa & Nakajima, 1981 infecting the skin of common carp Cyprinus carpio L. Journal Parasitology International. Vol.65(1), 78-82. 14. Zhang JY , Yokoyama H, Wang JG, Li AH, Gong XN, Ryu-Hasegawa A, Iwashita M, Ogawa K, 2009. Utilization of tissue habitats by Myxobolus wulii Landsberg & Lom, 1991 in different carp hosts and disease resistance in allogynogenetic gibel carp: redescription of M. wulii from China and Japan. Journal of Fish Diseases 33(1):57-68 Ngày nhận 15-6-2018 Ngày phản biện 4-8-2018 Ngày đăng 1-9-2018
File đính kèm:
- nghien_cuu_mot_so_dac_diem_benh_u_nang_ba_dau_trong_ruot_ca.pdf